tiểu thuyết tố tâm

1. Bài tiểu luận triết học về con người. Giới thiệu về tiểu luận: Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, con người là nhân tố quan trọng hàng đầu, đóng vai trò là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Với vị trí chủ đạo đó, con người cần được hoàn thiện 2. Phân tích một số yếu tố liên quan tới hành vi nguy cơ [tùy chủ đề nghiên cứu] Hoặc. Mô tả thực trạng [tùy chủ đề nghiên cứu] Xác định một số yếu tố liên quan đến thực trạng [tùy chủ đề nghiên cứu] So sánh kết quả trước và sau can thiệp [tùy chủ đề nghiên Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Lý Luận Văn Học: Khuynh Hướng Tiểu Thuyết Tâm Lý Việt Nam Từ 1925 Đến 1945; Người Kể Chuyện Trong Tiểu Thuyết Việt Nam Có Yếu Tố Hậu Hiện Đại; Luận Văn Thạc Sĩ Ngành Lý Luận Văn Học: Thơ Lục Bát Từ Truyền Thuyết Đến Hiện Đại Vanvn- Tiểu thuyết "Tố Tâm" không phải là cuốn sách duy nhất của nhà văn Hoàng Ngọc Phách, bút danh Song An. Trong cuộc đời lao động trí óc cần mẫn và khiêm nhường của mình, ông còn là tác giả của nhiều công trình khác. Đó là những cuốn như " Thời thế với văn Tiểu thuyết Tố Tâm xây dựng được những hình tượng nhân vật mới mẻ, khá thuyết phục. Trong tác phẩm, các tính cách nhân vật có sự phát triển "tự thân", như là trong cuộc đời thật. Đạm Thủy là hình ảnh một thanh niên trí thức Tây học còn Tố Tâm là cô gái App Vay Tiền. Tố Tâm là tên một tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách 1896-1973, sáng tác năm 1925. Nhiều tài liệu, có lẽ dựa trên Việt Nam Văn học Sử yếu của Dương Quảng Hàm và Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, cho Tố Tâm là tiểu thuyết đầu tiên của Việt Nam, nhưng trên thực tế trước Tố Tâm đã có rất nhiều tiểu thuyết sáng tác tại Nam Kỳ. Do giao thông cách trở thời Pháp thuộc Nam Kỳ là đất thuộc địa, Bắc Kỳ là đất bảo hộ, những nhà nghiên cứu trên có thể vì thế mà không biết về các tiểu thuyết Truyện thầy Lazaro Phiền 1887 của Nguyễn Trọng Quản, Hoàng Tố Anh hàm oan 1910 của Trần Chánh Chiếu, Phan Yên ngoại sử 1910 của Trương Duy Toản, Kim thời dị sử 1917 của Biến Ngũ Nhy, Ai làm được 1922 của Hồ Biểu Chánh, Riêng truyện Tố Tâm thì nguồn cảm hứng là La Dame aux camélias của văn hào người Pháp Alexandre Dumas con.[1] Năm 2006, một bản dịch Tố Tâm ra tiếng Pháp được xuất bản, mang tựa Un coeur pur Le roman de Tô Tâm do Michèle Sullivan và Emanuelle Lê Oc Mach dịch. Hoàng Ngọc Phách, còn có bút hiệu Song An, sinh năm 1896 trong gia đình và ở vùng quê có truyền thống khoa bảng – làng Đông Thái, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Ông từng là học sinh các trường học nổi tiếng, trong đó có trường Bưởi, Hà Nội. Khi còn là học sinh trường Bưởi, Hoàng Ngọc Phách đã trúng giải 8 trong 20 giải của cuộc thi thơ do Ban Quản trị rạp Sán Nhiên Đài tổ chức. Trong thời gian học ở đây, ông đã tham gia nhiều phong trào bênh vực và bảo vệ quyền lợi của học sinh. Năm 1919, sau khi đỗ cao đẳng tiểu học Pháp và bằng Thành Chung, ông trúng tuyển vào ban văn chương của Trường cao đẳng sư phạm – một ngành học và trường học danh giá bậc nhất lúc bấy giờ. Năm cuối ở trường này, Hoàng Ngọc Phách hoàn thành tiểu thuyết Tố Tâm. Trong một thời gian dài, nhiều ý kiến cho rằng Tố Tâm là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của Việt Nam. Hoàng Ngọc Phách công tác liên tục trong ngành giáo dục và sau đó, năm 1959 ông chuyển sang Viện Văn học làm công tác nghiên cứu cho đến năm 1963 thì nghỉ hưu. Năm 1973, Song An Hoàng Ngọc Phách ốm nặng nằm bệnh viện Việt – Xô Hà Nội, Tú Mỡ vào thăm và đọc tặng ông bài thơ tiễn biệt “Viếng sống” trước khi ông mất mấy ngày “Mấy lời thăm hỏi bác Song An/ Có phải va-li đã sẵn sàng?/ Công việc trần gian đà trọn vẹn/ Đường về tiên giới rất xênh xang./ Đây thằng bố lếu thơ tinh nghịch/ Đấy bạn “cô-le” nghĩa cũ càng./ Bác thượng thọ rồi tôi cũng thượng/ Bác ra tàu trước, đệ còn khoan”. Tiểu thuyết Tố Tâm được viết 1922, in lần đầu 1925. Nội dung cốt truyện kể về một đôi thanh niên nam nữ yêu nhau, vì lễ giáo phong kiến mà không được sum họp. Đạm Thủy, một chàng sinh viên đã có nhiều thơ đăng báo, một lần về quê, đánh rơi ví dọc đường, chàng đến trình quan huyện sở tại. Sau khi về trường, chàng được nhắn đến nhà bà Án, chị của quan, để nhận ví. Tại đây, chàng kết thân với cậu Tân, con bà Án. Cũng tại đây, chàng gặp và thầm yêu chị của Tân, nàng Nguyễn Thị Xuân Lan, một cô gái đẹp nhất phố, hiền thục, nết na, giỏi giang và cũng rất yêu thích văn chương và đã từng say mê thơ Đạm Thủy, nên nay biết mặt chàng, nàng thêm quyến luyến. Hai người thường mạn đàm văn chương mỗi khi gặp mặt. Đạm Thủy đặt biệt hiệu cho nàng là Tố Tâm. Hai người trẻ tuổi cảm thấy không thể sống thiếu nhau. Tuy vậy, gia đình Đạm Thủy đã hỏi vợ cho chàng và chàng không dám hủy lời giao ước của cha mẹ. Tố Tâm thì cũng đã có nơi xứng đáng dạm hỏi, mặc dù Đạm Thủy khuyên bảo nhưng nàng vẫn không nghe vì tình yêu mãnh liệt dành cho Đạm Thủy. Khi mẹ Tố Tâm ốm nặng, gia đình buộc nàng lấy chồng. Nàng nhất quyết khước từ. Đạm Thủy, vì quá yêu, nên có ý tưởng cùng nàng trốn đi, xây hạnh phúc, nhưng chàng bỏ ý định vì vướng bận gia đình và Tố Tâm cũng can ngăn chàng. Sau, phần bị gia đình thúc ép, phần do thương mẹ và cũng bởi nghe lời khuyên nhủ của Đạm Thủy, Tố Tâm lấy chồng. Trước ngày cưới, nàng hẹn gặp Đạm Thủy, trao chàng kỷ vật và khóc từ biệt. Nhận lá thư vĩnh biệt của Tố Tâm, Đạm Thủy đáp từ, tặng nàng mấy cành hoa lan mừng ngày cưới. Sau lễ cưới, nhân hội chùa Đồng Quang, hai người thoáng thấy nhau, nhưng Tố Tâm quay mặt đi. Lúc này, nàng đã ốm nặng. Về, biết mình không khỏi bệnh, nàng tiếp tục viết nhật ký cho Đạm Thủy. Nàng cũng kể sự thật với chồng. Rồi nàng qua đời, chỉ sau ba mươi sáu ngày lên xe hoa do bị thổ huyết. Ngày đưa tang Tố Tâm, Đạm Thủy đau xót đến viếng, nhưng không dám xuất hiện. Hôm sau, chàng ra thăm mộ nàng, lấy áo mình đắp lên mộ và trở lại thăm nhà bà Án, chàng được gia đình trao hộp kỷ vật có quyển nhật ký của Tố Tâm. Đọc nhật ký, Đạm Thủy thương tiếc nàng, hối hận mà thành bệnh. Anh trai Đạm Thủy biết em suy sụp vì tình yêu nên kịp thời động viên, an ủi. Từ đó, Đạm Thủy quyết tâm học hành, lòng giữ hai điều thiêng liêng công danh sự nghiệp và mối tình nồng nàn, cao thượng với Tố Tâm. Sau khi tiểu thuyết này ra đời đã dấy lên phong trào say mê tìm đọc của thanh niên, học sinh Việt Nam vào thời điểm ấy. Đây cũng là cuốn tiểu thuyết có số lần tái bản kỷ lục lên tới hàng mấy chục lần. Tố Tâm đã đưa tên tuổi Song An – Hoàng Ngọc Phách vào hàng các nhà văn tên tuổi lúc bấy giờ “Trong cái rừng văn chương tương đối rậm rạp có trăm ngàn bông hoa đua nở, sản xuất ra các nhà văn viết đủ các loại truyện… Song An Hoàng Ngọc Phách chính là một thứ văn gia, tiểu thuyết “của một cuốn sách” trong văn học sử nước ta” Vũ Bằng. Trờng đại học VinhKhoa Ngữ văn=== ===Khóa luận tốt nghiệp đại họcNgành cử nhân khoa học ngữ văn"Tố tâm" với thể loại tiểu thuyếtGiáo viên hớng dẫnSinh viên thực hiệnLê Văn TùngLê Thị HuêVinh 2005= =Mục LụcTrangA. Mở đầu............................................................................................................1. Lý do chọn đề tài..............................................................................................2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu................................................................................3. Phơng pháp nghiên cứu....................................................................................4. Giới hạn đề tài...................................................................................................5. Nhiệm vụ khoa học...........................................................................................B. Nội dung.........................................................................................................Chơng I Về tiểu thuyết và lịch sử tiểu thuyết.................................................. Thể loại tiểu thuyết........................................................................................ Tiểu thuyết trong lịch sử văn học Thế giới - Việt Nam............................... Khái niệm tiểu thuyết hiện đại.................................................................... Tiểu thuyết hiện đại............................................................................ Khái quát các chặng đờng phát triển của tiểu thuyết hiện đại từđầu thế kỷ XX đến 1945.....................................................................Chơng 2 "Tố Tâm" nhìn từ góc độ thể loại tiểu thuyết............................... Giới thiệu khái quát về Hoàng Ngọc Phách và "Tố Tâm"......................... Về Hoàng Ngọc Phách....................................................................... Đề tài - chủ đề - nội dung t tởng của "Tố Tâm"................................. "Tố Tâm" với các đặc trng thể loại tiểu thuyết........................................... "Tố Tâm" tiếp cận thực tại qua góc nhìn đời t................................... Chất văn xuôi trong tiểu thuyết "Tố Tâm"..................................... Nhân vật trong tiểu thuyết "Tố Tâm" là những con ngời nếm trải............................................................................................................. "Tố Tâm" chứa đựng nhiều yếu tố ngoài cốt truyện.......................... Thành công và vị trí của "Tố Tâm" nh một tiểu thuyết hiện đại................Chơng 3 "Tố Tâm" với sự phát triển tiểu thuyết hiện đại từ sau1932 - 1945.................................................................................... "Tố Tâm" với tiểu thuyết lãng mạn Tự Lực văn đoàn............................ "Tố Tâm" với tiểu thuyết hiện thực phê phán.............................................C. Kết luận......................................................................................................Tài liệu tham khảo......................................................................................Lời cảm ơnTôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Lê Văn Tùng,ngời đã gợi ý đề tài và tận tâm hớng dẫn tôi trong suốt quá trìnhlàm khóa cũng nhận đợc sự giúp đỡ của các thầy cô trong khoa Ngữvăn, nhất là các thầy cô trong tổ Văn học Việt Nam hiện lần nữa, tôi xin cảm ơn thầy giáo hớng dẫn và các thầy côgiáo, bạn bè đã giúp đỡ, động viên tôi hoàn thành khóa luận này.=2=Vinh, tháng 5 năm giảLê Thị HuêA. Mở đầu1. Lý do chọn đề tàiTrong lịch sử văn học Việt Nam, thập kỷ 20 của thế kỷ XX có một vị trívô cùng trọng đại. Đó là khoảng thời gian đệm tích tụ năng lợng cho một cuộcnhảy vọt, là mối giao thoa văn hoá Đông - Tây kim cổ, là thời điểm diễn racuộc tranh giành kịch liệt giữa cái cũ - vốn đã tồn tại lâu trong quá khứ với cáimới - đang đợc du nhập ồ ạt từ bên ngoài vào. Và đây cũng là lúc nền văn họcViệt Nam đang bớc những bớc dài để chuyển mình từ phạm trù trung đại sangphạm trù hiện đại mà dấu hiệu rõ nhất là tiểu thuyết Tố Tâm, một điểm mốcđặc biệt trên hành trình phát triển của văn học và tiểu thuyết Việt Nam ta gọi Hoàng Ngọc Phách là nhà văn của một cuốn sách, cuốnsách đó là tiểu thuyết Tố Tâm. Mặc dù chỉ vẻn vẹn trong vòng một trămtrang nhng lại chứa đựng nhiều điều khá mới mẻ, đã giải quyết đợc khá trọnvẹn và đúng hớng yêu cầu cấp bách, nhức nhối mà lịch sử đặt ra trên bình diệnvăn học, ông đã nâng thể loại tiểu thuyết lên một bớc mới - tiểu thuyết tâm lý,khác với tiểu thuyết truyền thống - tiểu thuyết đạo lý. Phá vỡ kết cấu của tiểuthuyết cổ điển hội ngộ, lu lạc, đoàn viên, tác giả đa vào trong tác phẩm của=3=mình mối tình đẹp đẽ, thơ mộng nhng rồi tan vỡ và một trong hai nhân vậtchính phải chết. Ngay hình thức kể chuyện cũng vậy, tiểu thuyết một phần làcâu chuyện kể bằng ngôi thứ nhất, một phần là những bức th và một phần lànhật ký. Đây là một cách viết rất mới đó tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách đã trở thành mộthiện tợng văn học lý thú, đợc nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Tuy nhiên cáccông trình từ trớc đến nay mới chỉ quan tâm, chú ý tới những d luận xã hội, sựđối lập giữa cái mới và cái cũ mà cha thực sự quan tâm đến vấn đề về thể lựa chọn đề tài này có ý nghĩa quan trọng, một mặt nó thể hiện nhữngthành công của Hoàng Ngọc Phách ở thể loại tiểu thuyết, mặt khác ngời đọcnhận thấy đợc sự phát triển của thể loại tiểu thuyết ở Việt Nam là phát triểntheo đúng quy luật của lịch sử và đi đúng quy luật của quá trình giao lu sát tiểu thuyết Tố Tâm giúp chúng ta phần nào thấy vai trò vị trímở đầu và cả những hạn chế của tiểu thuyết lãng mạn ở thời kỳ đầu, mở đờngcho tác phẩm lãng mạn sau này nh tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn có thể đạtđợc những thành tựu cao hơn trong sáng tạo nghệ khác trong quá trình giảng dạy các tác phẩm văn học lãng mạntrong nhà trờng phổ thông, do nhiều yếu tố chi phối, việc dạy và học còn rấtnhiều bất cập, giáo viên và học sinh nhiều lúc cha dám đi sâu vào toàn bộ tácphẩm. Việc nghiên cứu đề tài này giúp cho việc giảng dạy các tiểu thuyết ViệtNam hiện đại một cách có căn cứ lý thuyết, căn cứ thực tiễn, phản ánh đúngquy luật phát triển của tiểu Lịch sử vấn đề nghiên cứuLịch trình tìm hiểu, nghiên cứu Tố Tâm và Hoàng Ngọc Phách đã cóhơn nửa thế kỷ và có khoảng trên 300 công trình, bài viết. Nhng khi trong dluận đang xôn xao, sôi nổi về cuốn tiểu thuyết mới lạ thì phát ngôn chínhthống trên báo chí của giới nghề nghiệp lại hết sức dè dặt. Trong một bài phátbiểu của mình năm 1922 Lê Hữu Phúc nêu lên một vấn đề cũng chính là bănkhoăn của tác giả. Quyển tiểu thuyết ra đời khi sớm quá lại viết theo lối mớita cha từng xem quen. Đây là có thể xem là công trình đầu tiên nghiên cứu về"Tố Tâm".Trong những năm 30 của thế kỷ XX, Tố Tâm đợc nhiều tác giả quantâm nghiên cứu bởi nó là tác phẩm có giá trị đột phá trong nghệ thuật nh cácbài viết, tiểu luận của Thiếu Sơn, Trúc Hà, Trơng Tửu...đăng trên các báo, tạpchí. Tuy nhiên các tác giả này chú trọng vào tiếng nói xã hội, những cách tân=4=nghệ thuật. Năm 1935 trên báo Loa, Trơng Tửu tập trung nghiên cứu hai vấnđề mà Hoàng Ngọc Phách đặt ra trong tác phẩm Đôi trai gái lãng mạn gầnnhau có thoát đợc ái tình không? ái tình ấy ở hiện trạng xã hội bây giờ gặpnhững trở lực gì và gây những tai hoạ gì ?Trong một bài điều tra về thanh niên An Nam năm 1938 cũng đã khẳngđịnh công lao của Hoàng Ngọc Phách Trớc Tố Tâm, tiểu thuyết là một chuỗidài sự kiện chồng chéo lên nhau, có nhiều lúc lần không ra, nhng rồi cuốicùng không thể nào khác vẫn dẫn đến một sự giáo dục về đạo lý. Ông HoàngNgọc Phách dù đã thanh minh nhiều lần nhng vẫn có can đảm viết cuốn tiểuthuyết thực sự là tiểu thuyết. Ông đặc biệt có can đảm làm cho tiểu thuyếtkhông phải chỉ kể lể sự kiện mà là chân dung của những tâm chung trong những năm 30, chúng ta cha thấy xuất hiện nhữngcông trình đáng kể nào nghiên cứu về "Tố Tâm" và Hoàng Ngọc Phách. Chỗđứng vẻ vang mà "Tố Tâm" giành đợc chỉ kéo dài trong khoảng 10 năm khôngphải do nó mà chính tại những tiểu thuyết viết rập khuôn theo kiểu của nó đặcbiệt phải kể đến những tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn, khi nó ra đời đãchiếm đợc vị trí trong lòng độc giả thì "Tố Tâm" chỉ còn đợc đón nhận mộtcách vừa phải nếu không nói là hững hờ và lãng quên. Trớc nghịch cảnh đóThạch Lam đã rút ra một vài nhận xét không phải là không có phần vội vãTố Tâm bây giờ không còn ai nhắc đến, cuộc kén chọn của thời gian đã lôicuốn tiểu thuyết đó nh nhiều tiểu thuyết của các văn sĩ lập tức ngời ta đã bác lại ý kiến của ông. Trong nhà văn hiện đạiquyển 2 ở mục Hoàng Ngọc Phách, Vũ Ngọc Phan lên tiếng trách cứ cácnhà phê bình đã phạm vào một điều lầm lớn là không biết đặt "Tố Tâm" vàothời đại của nó để thấy hết những giá trị thời đại mà quyển tiểu thuyếtnổi tiếng một thời ấy chứa thống nhất với ý kiến của tác giả nhà văn hiện đại, Trơng Chínhtrong Dới mắt tôi cũng khẳng định cuốn tiểu thuyết đã đợc nhiều ngờihoan nghênh và hình nh đã chiếm đợc một chổ chắc chắn trong văn học ViệtNam hiện đại. Các bài viết này đã nhận thấy đợc giá trị đích thực của cuốntiểu thuyết. Tuy nhiên vẫn cha có một công trình nào nghiên cứu tác phẩmmột cách toàn diện đặc biệt là về thể khoảng thời gian từ 1945 - 1954 do tình hình lịch sử, nhiệm vụchính trị chi phối quan niệm nghệ thuật đa tới sự cảnh giác quá lớn đối vớinhững hiện tợng văn chơng lãng mạn nên tiểu thuyết ít đợc nghiên cứu vànhắc đến.=5=Phải từ năm 1954 trở đi, tiểu thuyết của Hoàng Ngọc Phách mới đợcnhiều tác giả nghiên cứu với những công trình lớn nhỏ, đáng kể nhất là PhạmThế Ngũ, tác giả của cuốn Việt Nam văn học sử giản ớc tân biên đã đi vàonghiên cứu một số vấn đề có thể xem là khá mới mẻ thời bấy giờ, đó là vấnđề hoàn cảnh và chủ ý của tác giả khi viết, vấn đề nghệ thuật mới và hiệu ứngcủa nó đối với ngời đơng thời. Tiếp đó là sự ra đời của một loạt công trìnhnghiên cứu Song An Hoàng Ngọc Phách - Ngời của một cuốn sách của VũBằng năm 1970 Tạp chí văn học số 113/ 1970. Từ truyện thơ đến tiểuthuyết Tố Tâm Sự phát triển của tiểu thuyết văn xuôi ở Việt Nam của Cao ThịNh Quỳnh, John Schafer năm 1985 Tập san nghiên cứu Châu á 1988.Vào những năm đổi mới "Tố Tâm" đợc nghiên cứu trên nhiều bình diệnsâu rộng hơn, đặc biệt năm 1989 Tuyển tập Hoàng Ngọc Phách gồm "TốTâm" và một số truyện ngắn, hồi ký, bản thảo của ông đợc xuất bản đã đánhdấu một mốc quan trọng trong quá trình nghiên cứu Hoàng Ngọc Phách và tácphẩm của ông. Đặc biệt năm 1966 nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh củaHoàng Ngọc Phách, để tởng nhớ đến công lao và đóng góp to lớn của ông,Nguyễn Huệ Chi đã cho xuất bản công trình nghiên cứu Hoàng Ngọc Phách Đờng đời và đờng văn Hội Nhà văn Việt Nam - 1966 tập hợp khá đầy đủ vàcó chọn lọc những bài nghiên cứu, phê bình, bình luận trong toàn bộ sáng táccủa Hoàng Ngọc Phách của các tác giả trong và ngoài nhiên cha có một công trình nào nghiên cứu "Tố Tâm" trong vai tròtiên phong mở đầu cho thể loại tiểu thuyết hiện đại. Luận văn này là côngtrình đầu tiên nghiên cứu một cách công phu và có hệ thống về vai trò của nó,đánh dấu một bớc phát triển mới của thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện đại.=6=3. Phơng pháp nghiên cứuTiểu thuyết "Tố Tâm" ra đời trong thời điểm nhạy cảm của lịch sử, đó lànền văn học Việt Nam đang chuyển dần từ phạm trù trung đại sang phạm trùhiện đại. Vì vậy khi tiếp cận tác phẩm phải đặt nó vào quá trình vận động củanền văn học nói chung và sự phát triển của thể loại tiểu thuyết nói riêng đểthấy đợc "Tố Tâm" là cuốn tiểu thuyết đầu tiên của tiểu thuyết Việt Nam hiệnđại. Nó xuất hiện trên văn đàn không phải là một hiện tợng kỳ dị, đột biến mànó là kết quả của một quá trình vận tài thuộc phạm vi nghiên cứu về thi pháp thể loại tác phẩm nên mọinhận định đánh giá ngời viết đa ra đều xuất phát từ các yếu tố trong văn bảnngôn từ, đồng thời có sự so sánh, đối chiếu với các tác phẩm khác có giá trị rađời trớc và sau nó để từ đó có thể mở rộng tìm hiểu sự phát triển của thể loạitiểu nguyên tắc trên, ta có thể áp dụng các biện pháp sau để nghiên cứuđề tài So sánh "Tố Tâm" với các tác phẩm ra đời trớc và sau nó nh so sánh vớitiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Nguyễn Trọng Quản, tiểu thuyết của Tự Lựcvăn đoàn, hiện thực phê phán. Để từ đó thấy đợc vai trò mở đầu của nó so vớitiểu thuyết truyền thống và những hạn chế của nó so với những tiểu thuyết hơn sự biến chuyển của bản thân hiện kẻ biến đổi mới hiểu đợc sự biến đổi. Tiểu thuyết sở dĩ đã trở thành nhânvật chính trong tấn kịch phát triển văn học thời đại mới bởi vì nó là thể loạiduy nhất do thế giới ấy sản sinh ra nên nó đồng nhất với thế giới ấy về mọimặt. Tiểu thuyết về nhiều phơng diện đã và đang báo trớc sự phát triển tơng laicủa toàn bộ văn học. Vì thế một khi đã chiếm lĩnh đợc vị trí thống trị, nó xúctác làm đổi mới tất cả các thể loại khác, nó làm chúng lây nhiễm tính biến đổivà tính không hoàn thành. Nó lôi cuốn chúng một cách đầy quyền lực vào quỹđạo của mình, chính bởi vì quỹ đạo ấy trùng hợp với phơng hớng phát triển cơbản của toàn bộ văn học. Vị trí cực kỳ quan trọng của tiểu thuyết nh một đối tợng nghiên cứu cho cả lý luận và lịch sử văn học là ở chỗ trình biến đổi của tiểu thuyết cha kết thúc. Ngày nay, nó đang bớcvào một giai đoạn mới. Nét đặc thù của thời đại là thế giới trở nên phức tạp vàsâu sắc phi thờng, tính đòi hỏi cao, tính tỉnh táo và óc phê phán của con ngời=9=cũng tăng trởng phi thờng. Những đặc điểm đó sẽ ấn định cả sự phát triển củatiểu Tiểu thuyết trong lịch sử văn học thế giới - Việt phải ngẫu nhiên mà thể loại tiểu thuyết chiếm vị trí trung tâmtrong hệ thống thể loại văn hoc cận đại, hiện đại. Đúng nh nhà bác học ngờiNga M. Bakh tin nhận định Tiểu thuyết là thể loại văn chơng duy nhất đangbiến chuyển và còn cha định Tiểu thuyết trong lịch sử văn học thế Châu Âu tiểu thuyết xuất hiện vào thời kỳ xã hội cổ đại tan rã cũngnh văn học cổ đại suy tàn, cùng lúc dó con ngời đã xuất hiện ý thức cá nên các tiểu thuyết cổ đại của Hy Lạp, La Mã không thể đứng chen vaivới anh hùng ca, bi kịch, hài kịch cổ đại nữa. Cá nhân lúc ấy không còn cảmthấy lợi ích và nguyện vọng của nó gắn liền với cộng đồng xã hội cổ đại,nhiều vấn đề của đời sống riêng t đặt ra gay gắt. Số phận họ bị đe doạ bởi sựcớp bóc trên các nẻo đờng, bị chiến tranh giành giật lãnh thổ đẩy vào cảnhsống chết bất trắc, bị các nhà đơng cục bóc lột tàn nhẫn, con ngời ý thức đợcthực trạng trơ trọi không nơi bấu víu của họ. Nhà lý luận Biêlinxki phân tíchnguồn gốc tiểu thuyết đã viết rằng tiểu thuyết bắt đầu phát sinh từ lúc Vậnmệnh của con ngời, mọi mối liên hệ của nó với đời sống nhân dân đợc ý vậy đời cá nhân bất luận thế nào cũng không thể là nội dung của anh hùngca Hy Lạp, nhng có thể là nội dung của tiểu thuyết [13, 387]ở chặng đầu tiên tiểu thuyết Châu Âu thờng ngắn đơn giản ngẫu nhiênvà có nhiều yếu tố hoang đờng. Chẳng hạn tiểu thuyết Hy Lạp cổ thờng kể vềnhững chuyện ly kỳ ngẫu nhiên xảy ra đối với số phận một con ngời, của đôitình nhân, những chuyện phiêu lu mạo hiểm. Chẳng hạn Truyện lừa vàngcủa Apulây khoảng 124 - 175 kể chuyện một thanh niên uống nhầm thuốcbùa và biến thành con lừa, rồi bị một bọn cớp mang đi lần lợt bị bán làm việckéo cối xay bột, thồ hàng cho lính rồi lại bị bán cho nhà giầu để giết thịt, saunhờ có vị nữ thần cứu lại làm ngời và liền đi tu. Hoặc nh truyện tình yêu thìthờng là đôi thanh niên nam nữ gặp nhau liền yêu nhau, cha kịp cới thì bị cớphoặc cha mẹ không thuận. Đôi tình nhân bỏ trốn thì gặp cớp, bị đắm thuyền,bị bán làm nô lệ. Cuối cùng sau bao nhiêu phiêu lu mạo hiểm lại gặp nhau vàđám cới đợc tiến vậy, sự quan tâm đời t con ngời nh một nét đặc trng của thể loại tiểuthuyết thoạt đầu đã hình thành từ thời cổ đại. Con ngời một mình đối diện với= 10 =sự biến hoá, bất ngờ của môi trờng và muốn tồn tại, con ngời phải đem phẩmchất, tài trí, kinh nghiệm cá nhân mà chọi lại với mọi sự can thiệp của sốphận. Và t duy tiểu thuyết cũng xuất hiện với sự tái hiện đời sống trên quanđiểm của con ngời riêng thời trung cổ khoảng thế kỷ XI - XII phổ biến ở Châu Âu là tiểuthuyết hiệp sĩ, nhân vật chính thờng là những ngời giang hồ tài giỏi, tôn thờ lýtởng chống cái ác và tiểu thuyết hiệp sĩ này thờng gắn với những câu chuyệntình. Hiệp sĩ phải phiêu lu qua các vơng quốc và lâu đài khác nhau, đem tài trímà lập các chiến công kỳ lạ để đợc khẳng định trong tình yêu của một ý trungnhân. Đến cuối thế kỷ XIII, loại tiểu thuyết này mất thế kỷ XIII trở đi, ở Châu Âu đặc biệt là ở Tây Ban Nha bắt đầu hìnhthành và phổ biến loại tiểu thuyết bợm nghịch, du đãng, nhân vật chính trongtiểu thuyết là những gã du đãng, tài giỏi đi giang hồ từ vùng này sang vùngkhác và nhiều khi đó là những tên lừa đảo, trộm đoạn mới của tiểu thuyết bắt đầu từ thời Phục Hng Châu Âukhoảng thế kỷ XIV - XVI khi xảy ra quá trình giải phóng con ngời khỏi thầnquyền của nhà thờ, khi con ngời bắt đầu ý thức nh một thực thể xã hội, tínhtrần tục cụ thể trong các quan hệ xã hội và điều kiện xã hội, lý tởng nhân vănđợc khẳng định, tôn thờ lẽ sống tự nhiên, miêu tả rộng lớn tất cả các quan hệcá nhân và xã hội gắn liền với ý thức phê phán hoàn cảnh làm cho tiểu thuyếtthời kỳ này có bộ mặt mới. Chi tiết sinh hoạt, chi tiết lịch sử, phong tục tănglên, kết cấu mở rộng. Yếu tố phiêu lu mang một chức năng mới Mở rộng diệnquan sát, nghiên cứu và phê phán hiện thực. Păngtagruyen của Rabơle vàĐônkihôtê của Xecvantex đã phê phán mọi mặt xã hội phong kiến trung cổvà cả mặt hạn chế của quan hệ t bản, khẳng định nhu cầu mọi mặt của con ngời, từ vật chất đến tinh kỷ XVIII - XIX đặc biệt là thế kỷ XIX hai trờng phái hiện thực vàlãng mạn đã xuất hiện các nghệ sĩ bậc thầy nh Xtăngđan, Bandắc, ThaCơ Rây,Đickenx, Gôgôn, Tuôcghênhép, Đôxtôiepxki, Thể loại tiểu thuyếtđã đạt đến sự nảy nở trọn vẹn, sự miêu tả đời sống riêng t với những lợi íchdục vọng cá nhân đều gắn liền với tính khái quát có tầm vóc lịch sử xã hộirộng lớn, xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển hình. Vềnội dung thể loaị, tiểu thuyết thế kỷ XIX kết hợp nội dung đời t với nội dungthế sự, một số tác phẩm kết hợp với nội dung lịch sử dân tộc. Quy mô tiểuthuyết đạt đến tầm vóc lớn lao đồ sộ cha từng có nh bộ Tấn trò đời của= 11 =Bandắc, Dòng họ RugôngMacca của Dôla, Chiến tranh và hoà bình ở Trung Quốc, khái niệm tiểu thuyết xuất hiện từ rất sớm, ngay từthời nhà Tần Thế kỷ III TCN trong sách của Trang Tử. Theo Lỗ Tấn, tiểuthuyết Trung Quốc ra đời, vận động phát triển qua các thời kỳở thời Nguỵ Tấn Thế kỷ III - IV xuất hiện dới dạng Chí quái, Chínhân - chuyện ghi chép những việc quái dị hoặc những việc thuộc sinh hoạtcá nhân của các danh sĩ ở ngoài giới hạn kinh sử. Do vậy loại tiểu thuyết nàycực kỳ ngắn, đơn giản và có nhiều yếu tố hoang đời Đờng, giai cấp phân hoá, đối lập sâu sắc, lại thêm thành thịphát triển tạo cơ sở cho loại văn học ngoài kinh sử phát triển. Cũng nh ở phơng Tây, tiểu thuyết truyền kỳ đời Đờng thể hiện những nhu cầu đời sống cánhân, phê phán các thói tục xấu xa hoặc sự bất bình đẳng xã hội, khẳng địnhcác phẩm chất tính cách cá nhân tốt đẹp nh ca ngợi tình vợ chồng, tình yêuchung thuỷ... Do vậy nó gần gũi với cuộc đời, ngoài ra là các truyện hiệpkhách, truyện tìm tiên học đạo thể hiện t tởng h vô kiểu đời ngời nh mộng,phú quý nh thuyết thoại bản đời Tống khoảng thế kỷ XI - XIII ở Trung Quốccác đô thị phát triển, xuất hiện tầng lớp thị dân cho nên có các nghệ nhân kểchuyện để phục vụ cho tầng lớp này, thờng là truyện kể từng đêm theo sự tíchlịch sử hoặc kinh truyện mà theo Lỗ Tấn các thoại bản này chính là cơ sở chosự ra đời của tiểu thuyết chơng hồi Minh - Thanh. Tiểu thuyết thoại bản đờiTống tiếp tục thể hiện cuộc đời số phận và phẩm chất cá nhân trong đời đời Minh - Thanh thì đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của tiểuthuyết. Tiểu thuyết đời Minh thờng khai thác đề tài lịch sử, thể hiện tinh thầnnghĩa hiệp, do vậy mà có giọng điệu hào hùng, hoành tráng nh bộ tiểu thuyếtchơng hồi nổi tiếng Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thuỷhử của Thi Nại Am, Tây du ký của Ngô Thừa Ân. Sang đời Thanh xã hộitrở nên rối ren, thối nát cho nên xuất hiện các tiểu thuyết xuất sắc kể về đời tvà đạo đức thế sự nh Hồng lâu mộng và Chuyện làng Tiểu thuyết trong lịch sử văn học Việt thuyết ở Việt Nam phát triển muộn. Từ thế kỷ X - XII mới xuấthiện những văn bản viết đầu tiên, thờng là những truyện văn xuôi dới dạng cácthần phả nh việt điện U linh hoặc ghi chép các truyền thuyết dân gian nhLĩnh Nam chích quái. Do vậy bao giờ cũng có những yếu tố hoang đờng.= 12 =Từ thế kỷ XV - XVIII những truyện văn xuôi chữ Hán đạt đợc nhữngthành tựu đáng kể nh Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Truyền kỳmạn lục của Nguyễn Dữ, Truyền kỳ tân phảcủa Đoàn Thị Điểm phần lớn làviết về đời t của những ngời bình thờng, nhất là phụ thế kỷ XVIII - XIX đặc biệt là cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIXxuất hiện những truyện Nôm, trong truyện Nôm đã có yếu tố của tiểu thuyếtnh có cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ ngời kể chuyện. Đây có thế coi là tiền đềcho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại ra đời bởi qua khảo sát ngời ta thấy nhữngcuốn tiểu thuyết đầu tiên có cấu trúc giống truyện Nôm. Cùng với việc xuấthiện truyện Nôm cuối thế kỷ XVIII xuất hiện tác phẩm văn xuôi chữ Hán dàihơi phải kể đến là Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái có quy môtiểu thuyết 17 hồi, hơn 30 nhân vật bao quát một khoảng thời gian dài từ1767 - 1802, nhiều chi tiết về cuộc sống nhiều mặt. Về nội dung thể loại tuycó yếu tố đời t và thế sự nhng tính chất sử thi là chủ yếu vè gắn với sự hngvong của triều đại, của đất nớc. Tuy nhiên xét về nhiều mặt nó vẫn thuộcphạm trù tiểu thuyết cổ điển phơng tiểu thuyết Việt Nam hiện đại xuất hiện khi nào? Vào cuối thế kỷXIX 1887 tại Gia Định lần đầu tiên xuất bản cuốn tiểu thuyết mang mầu sắcmới đó là Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản. Trong truyện nàyngời đồng hành với Lazaro Phiền trên chuyến tàu đi Bà Rịa đã thuật lại nhữnglời thú tội của chính Lazaro Phiền, một thông ngôn của chính quyền thuộc địaPháp tại Nam Kỳ. Một phụ nữ Việt lấy chồng Pháp phải lòng thầy thông ngôn,nhng không đợc Lazaro Phiền đáp lại, chị ta bèn bịa tạc những chuyện xấutrong quan hệ giữa vợ của Lazaro Phiền với anh vợ của anh ta. Nghi bạn và vợthông dâm, Lazaro Phiền đã giết cả hai ngời. Lazaro Phiền hối hận vì đã giếtbạn và vợ giày vò. Sau khi biết vợ và bạn vô tội, Lazaro Phiền càng bị giày vòdữ dội hơn. Nỗi đau khổ vì sám hối nhng không đợc cứu rỗi đó khiến LazaroPhiền dần dần đi đến cái chết. Cuốn tiểu thuyết này chỉ dày có 28 trang chagây đợc tiếng vàng lớn. Đáng chú ý trong bài tựa của cuốn tiểu thuyết tác giảviếtĐã biết rằng xa kia dân ta chẳng thiếu chi thơ, văn, phú, truyện nói vềnhững đấng anh hùng hào kiệt, những tay tài cao chí cả rồi đó, mà những đấngấy thuộc về đời xa chớ đời nay chẳng còn nữa. Bởi đó tôi mới dám bày đặtmột chuyện đời này là sự thờng có trớc mắt ta luôn, nh vậy thì sẽ có nhiều ngời sẽ lấy lòng vui mà đọc, kẻ thì cho quen mặt chữ, ngời thì đặng giải phiềnmột giây.= 13 =Vậy nếu truyện tôi in ra đây làm cho đẹp lòng mọi ngời đặng, thì tôilấy làm có phớc lắm, mà ai có thấy sự gì chẳng đẹp ý ai, thì xin cho tôi biếtmà thú tội cùng sửa mình lại, thì tôi sẽ cảm ơn vô một đoạn trớc có câu ... tôi một có ý dụng lấy tiếng thờng mọi ngờihằng nói mà làm ra một truyện hầu cho kẻ sau coi mà bày đặt cùng in ít nhiềuchuyện hay... [198, 4].ở đây Nguyễn Trọng Quản đặt ra ba tiêu chí đối với một tiểu thuyếthiện đại. Thứ nhất tiểu thuyết là sự h cấu mà tác giả nói là bày đặt để kể lạimột câu chuyện, thứ hai đó là những chuyện xảy ra trong xã hội đơng thời sựthờng có trớc mắt ta luôn và cuối cùng là dùng văn xuôi viết bằng chữ quốcngữ để kể lại câu chuyện bày đặt,đó là thứ tiếng thờng mọi ngời hằng chung tác phẩm cha đạt đợc tầm vóc của một thiên tiểu thuyết, về một phơng diện nào đấy mới chỉ là một truyện dài mà đợi đến đầu thế kỷ XX 1922 nhà văn Hoàng Ngọc Phách viếttiểu thuyết"Tố Tâm", xuất bản năm1925 thì giới nghiên cứu văn học mớikhẳng định đây là cuốn tiểu thuyết mở đầu cho tiểu thuyết Việt Nam hiện năm 1900 - 1920 tiểu thuyết hiện đại viết bằng chữ quốc ngữ pháttriển rất nhanh và hầu nh chỉ tập trung ở khu vực Nam Bộ, số lợng nhiều nhngthành tựu cha có, cha xuất hiện những tác giả, tác phẩm tiêu 1920 - 1930 bắt đầu có thành tựu về cây bút Nam Bộ tiêu biểu là HồBiểu Chánh với các tác phẩm nh Cay đắng mùi đời, Tiền bạc bạc tiền,Cha con nghĩa nặng... Tuy nhiên tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh mới chỉ làtiểu thuyết đạo lý nặng về giáo thuyết Việt Nam bớc vào thời kỳ phát triển rực rỡ phải đến giaiđoạn 1930 - 1945 với hàng loạt tiểu thuyết của Tự Lực văn đoàn và nhất làtiểu thuyết của hiện thực phê phán với những tác giả và tác phẩm tiêu biểu nhNam Cao với Sống mòn, Vũ Trọng Phụng với Số đỏ, Vỡ đê, Giông tốngoài ra còn phải kể đến Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố ...Giai đoạn 1945 1975 tiểu thuyết gặt hái đợc nhiều thành công trongviệc phản ánh hai cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc và trong công cuộcxây dựng chủ nghĩa xã hội đặc biệt là xây dựng đợc nhiều nhân vật anh hùngnh Hòn đất của Anh Đức, Đất nớc đứng lên của Nguyên Ngọc, tiểu thuyếtMiền Tây của Tô Hoài ...Từ sau 1975 đến nay tiểu thuyết tập trung vào thể hiện đề tài đời t thếsự và đã đạt đợc những thành tựu đáng kể trên nhiền phơng diện cách xâydựng nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ trần thuật ... đa tiếng Việt dần= 14 =đến sự hoàn thiện và hiện đại nh Đất trắng của Nguyễn Trọng Oánh, Nỗibuồn chiến tranh của Bảo Ninh, Bến không chồng của Dơng Hớng ... Khái niệm tiểu thuyết hiện Tiểu thuyết hiện kia đối với tiểu thuyết, ông cha của chúng ta có một quan niệmriêng tiểu thuyết tức là những chuyện hoang đờng hoặc chuyện lịch sử quákhứ. Đọc tiểu thuyết để giải trí mà giải trí là cùng sống một lúc với các nhânvật trong tiểu thuyết ở một thế giới khác, một thế giới thần tiên hay ma quỷ,chỉ hơi phảng phất với cuộc đời ở thế gian quan niệm về tiểu thuyết ấy, ngày nay đã thay đổi hẳn. Nếu ta đứngvào phơng diện văn học mà xét, ta sẽ thấy thế kỷ XIX của Pháp cũng nh củacả Châu Âu là thế kỷ của tiểu thuyết. Còn ở Tàu, tiểu thuyết lại phát đạt sớmhơn. Ngay từ thế kỷ XII nớc Tàu đã có bộ Tam quốc chí diễn nghĩa mà ngàynay vẫn đợc kể là một bộ tiểu thuyết kiệt thuyết đợc phát đạt nh thế tất nhiên cũng có cái lý của nó, cũngnh một thứ cây gặp đợc chỗ đất thích hợp và khí hậu thích hợp vậy, từ thế kỷXIX tiểu thuyết đã trở nên một loại văn rất thích hợp với tinh thần nhân tiểu thuyết ngời ta thấy có cái thú vị nồng nàn là đợc sống sâu rộng hơn,thấm thía hơn vì ở đời không một ai đợc sống trọn vẹn. Tiểu thuyết ở nớc tacũng đã gây đợc một mảnh đất thích hợp nh tiểu thuyết ở hầu hết các nớc trênhoàn cầu, tiểu thuyết ở nớc ta cũng đã gần trở nên một thứ báo không phải thứbáo thông tin hàng ngày mà là một thứ báo gọi các tính biết của ngời nói rằng tiểu thuyết Việt Nam hiện đại hãy còn rất trẻ trung và trànđầy sức sống tuy nó đã đi qua một chặng đờng lịch sử gần nửa thế kỷ năm 20 là thời kỳ chuẩn bị hình thành một nền tiểu thuyết mới. TrớcCách mạng tháng Tám tiểu thuyết hiện đại phát triển theo nhiều khuynh hớngkhác nhau và đã ghi đợc nhiều thành tựu đáng kể trong thời kỳ Mặt trận dânchủ. Sau năm 1945 đặc biệt là từ năm 1954 đến nay là những năm đợc mùalớn của tiểu thuyết hiện thực xã hội chủ số vấn đề cần phải đặt ra nh quan niệm thế nào là tiểu thuyết hiệnđại? Tại sao những mầm mống của tiểu thuyết hiện đại lại xuất hiện vàonhững năm 20 của thế kỷ XX? Những cơ sở về mặt xã hội và ý thức hệ đã làmnảy sinh những thể loại văn học hiện đại tiểu thuyết, kịch nói, truyện ngắn?Nh chúng ta đã biết cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX là thời kỳ mà lịchsử của dân tộc Việt Nam đang tiến nhanh vào thời kỳ hiện đại. Khi Việt Namđã thực sự biến thành thuộc địa của đế quốc Pháp, khi mà ánh sáng của Cách= 15 =mạng tháng Mời Nga rọi tới Phơng Đông thì Việt Nam không còn là một bánđảo đứng chơ vơ ở địa đầu Đông Nam á nữa. Từ nay lịch sử dân tộc Việt Namsẽ gắn liền với phong trào cách mạng thế giới, với cuộc đấu tranh của giai cấpcông nhân và phong trào giải phóng dân tộc. Từ nay những trào lu văn học vàtriết học hiện đại cuả thế giới sẽ tiếp tục tràn vào Việt Nam gây nên nhữngảnh hởng hết sức mâu thuẫn và phức tạp. Bản thân văn học Việt Nam nhữngnăm 20 cũng chuyển nhanh vào thời kỳ hiện đại để phục vụ cho những hìnhthái mới của cuộc đấu tranh giai cấp. Tiểu thuyết với t cách là một thể loạiquan trọng trong đời sống văn học cũng không nằm ngoài vòng quay lịch lại với quan niệm thế nào là tiểu thuyết hiện đại? Theo Phan Cự Đệtrong cuốn Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại tập 1 cho rằng quan niệm hiệnđại bao gồm cả hai yếu tố nội dung và hình thức. Tiểu thuyết hiện đại phảiphản ánh đợc t tởng, tình cảm của những giai cấp, những tầng lớp ngời trong xãhội hiện đại, phải đặt ra đợc những vấn đề có ý nghĩa đối với thời đại chúng thuyết hiện đại cũng có thể soi rọi ánh sáng vào những thời kỳ quá khứ xaxa nhng với quan điểm lịch sử, với cách nhìn đánh giá của con ngời hiện thuyết hiện đại phải đợc xây dựng theo kiểu kết cấu mới, phơng pháp điểnhình hoá mới khác với những truyện Nôm và tiểu thuyết chơng hồi thế kỷXVIII và XIX, lối ngôn ngữ mới không phải là thứ văn chơng biền ngẫu đầyđiển tích, điển cố nặng nề và quan điểm thẩm mỹ vậy những quan niệm cũ lấy luân lý làm cốt truyện, lấy ly kỳ đểquyến rũ độc giả đều gạt bỏ. Các nhà văn ngày nay hiểu rằng muốn đợc lâudài phải hoặc lấy tâm lý làm gốc, giải phẫu tính tình dục vọng của cá nhânhay toàn thể, hoặc làm cho ta suy nghĩ về những vấn đề lớn lao có quan hệ đếnđơid ngời. Cách dẫn truyện cũng khác hẳn, không còn những lối bắt buộc độcgiả phải theo dõi một nhân vật suốt cả cuộc đời, thu rút thời gian lại, các nhàviết tiểu thuyết a gói ghém câu chuyện trong suốt quãng thì giờ ngắn ngủi, lúcmà tình thế đến hồi bi kịch nhất. Lời văn cũng vì thế mà mềm mại hơn để diễntả hết những vẻ uyển chuyển của tâm hồn ngời vào những cơ sở lý luận trên mà ngời ta đa ra rất nhiều định nghĩakhác nhau về khái niệm tiểu thuyết hiện đại, nhng cho đến nay khái niệm vềtiểu thuyết trong cuốn Từ điển thuật ngữ văn học của nhóm tác giả Lê BáHán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử là tơng đối đầy đủ và toàn diện hơn cảvì đã dựa trên cơ sở nghiên cứu của M. Bakhtin khi ông đã rút ra đợc nhữngđặc trng cơ bản nhất của tiểu thuyết khi dựa trên sự đối sánh giữa tiểu thuyết= 16 =và sử thi Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiệnthực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phảnánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục đạo đức xã hội,miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách đa dạng [8,268]. Khái quát các chặng đờng phát triển của tiểu thuyết hiện đại từ đầuthế kỷ XX đến năm trình hiện đại hoá văn học nửa đầu thế kỷ XX trải qua hai giaiđoạn, từ đầu thế kỷ đến năm 1932 và từ 1932 - 1945, nh hai cấp độ khác nhaucủa cùng một xu hớng vận động và phát triển. ở chặng đầu là những nhà vănđóng vai trò chuẩn bị và những chặng sau là những ngời có sứ mệnh hoànthành. Ranh giới giữa hai chặng thời gian đó tởng nh ngẫu nhiên nhng lại làranh giới nghiệt ngã không phải ai cũng có thể vợt qua. Ba mơi năm đầu thếkỷ là giai đoạn phôi thai của nền văn học mới và hơn một thập kỷ sau là giaiđoạn trởng thành của nó. Văn xuôi nghệ thuật với sự góp mặt của tiểu thuyếtcũng không đi chệch ra khỏi quy luật chung của tiến trình hiện đại hoá vănhọc dân sát sự vận động của tiểu thuyết Việt Nam trong những năm bản lềgiữa hai thế kỷ có thể nhận thấy sự chuyển biến và đổi mới của bản thân thểloại qua từng thời đoạn văn học và trong tơng lai tiểu thuyết vẫn không ngừngtìm tòi, đổi mới nhằm đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ của ngời đọc hiện đại. Vớicách nhìn biện chứng mang tính dự báo, M. Bakhtin đã nhận đinh Tiểuthuyết là thể loại văn chơng duy nhất đang biến chuyển và còn cha định hình[3, 21].Dẫu rằng tiểu thuyết là thể loại ra đời muộn hơn so với những thể loạikhác nhng với t cách là một thể loại hiện đại, tiểu thuyết đã chứng tỏ đợc sứctrẻ và sức sống của một thể loại đang trong qúa trình sinh thành và biến quá trình vận động ấy, tiểu thuyết vừa kế thừa các yếu tố kinh nghiệmnghệ thuật truyền thống, vừa có khả năng vận dụng phơng thức nghệ thuật củacác thể loại khác. ở Việt Nam, tiểu thuyết đã hình thành từ những năm đẩucủa thế kỷ XX, một thể loại mà theo Vũ Ngọc Phan cho là Tiểu thuyết là mộtloại văn đang thịnh hành ở nớc ta. Sự ra đời và phát triển của tiểu thuyết ViệtNam cũng phù hợp với xu thế phát triển chung của nền g lại ít dần. Tuy nhiên tiểu thuyết Việt Nam thế kỷ XXphải ghi nhận đóng góp đáng kể của Hồ Biểu Chánh tạo nền tảng vững chắccho tiểu thuyết phát triển rực rỡ ở giai đoạn thuyết miền Bắc xuất hiện chậm hơn nhng sau đó lại có tốc độphát triển vợt trội. Ban đầu là tác phẩm của Tản Đà nh Giấc mộng con1916, sau là Đặng Trần Phất với Cành lê điểm khuyết 1921, TrọngKhiêm với Kim Anh lệ sử 1924, Nguyễn Trọng Thuật với Quả da đỏ1925, Hoàng Ngọc Phách với "Tố Tâm" 1925. Trong mặt bằng tiểu thuyếtlúc đó "Tố Tâm" đã tỏ ra vợt trội, đánh dấu một bớc ngoặt trong lịch sử tiểuthuyết Việt Nam hiện đại, "Tố Tâm" nh một trái bom nổ giữa khung trời tìnhcảm[5, 603] lúc bấy giờ. Ngòi bút sáng tạo của Hoàng Ngọc Phách đã làmmột cuộc cách mạng trong văn xuôi, đi sâu vào khai thác thế giới nội tâm conngời với lối miêu tả thời gian tâm lý. Nhà văn đã khớc từ với kiểu tiểu thuyếtchỉ có một điểm nhìn trần thuật đơn điệu, theo đờng thẳng, xây dựng tác phẩmtheo dòng hồi tởng, khắc hoạ chân dung những tâm hồn. Giáo s Nguyễn HuệChi đã chỉ ra cái mới trong quan niệm nghệ thuật của tiểu thuyết "Tố Tâm"Tố Tâm đã chuyển hớng sáng tác từ môi trờng nhãn giới sang môi trờng tâmgiới, từ khuynh đạo lý sang khuynh hớng tâm lý, từ bút pháp chuyện kể sangbút pháp tự thuật, từ loại hình tiểu thuyết lấy sự chỉ vẽ thói đời làm đối tợngsang loại hình tiểu thuyết lấy sự mách bảo của con tim làm đối tợng, từ sựđộng nhất đơn giản xung đột nghệ thuật với xung đột xã hội đến sự hoá thântinh tế xung đột xã hội trong xung đột nội tâm [5, 89]. "Tố Tâm" của HoàngNgọc Phách khởi đầu một cuộc cách tân trong văn học, cho thấy sức mạnhcủa tiểu thuyết hiện đại với hình bóng đích thực của cái tôi trong đời sống tinhthần Việt Nam, đặt nhà văn vào vị trí mở đờng cho dòng văn xuôi lãng mạnViệt Nam thế kỷ XX và cụ thể hơn là một đại biểu tiền thân xứng đáng củaTự Lực văn đoàn Vũ Bằng.Nh vậy tiểu thuyết xuất hiện và đựoc hiện đại hoá dới ảnh hởng của tiểuthuyết phơng Tây. Trong một khoảng thời gian ngắn từ bỏ những đề tài trung,hiếu, tiết, nghĩa chú ý tới những điều xảy ra xung quanh, những truyện, nhữngvấn đề thế sự. Nhân vật trở thành trung tâm miêu tả và tâm lý nhân vật trở thànhđối tợng chủ yếu để khai thác. Thời gian nghệ thuật đa tuyến, đa chiều, kết cấumở, kết thúc bỏ ngỏ. Ngôn ngữ có tính dân chủ cao gắn với ngôn ngữ đời sốnghàng ngày. Cách trần thuật linh hoạt, có khi tác giả đứng ở ngôi thứ nhất, ngôi= 19 =thứ hai mà trần thuật. Quốc ngữ hiện đại Việt Nam đã phá vỡ hầu hết nhữngphạm vi cũ, mở ra hớng phát triển mới tự do và mạnh mẽ Sự phát triển hoàn chỉnh của tiểu thuyết Việt Nam là chặng đờng đánh dấu sự phát triển rực rỡ của thể loại tiểuthuyết. Từ năm 1932 với sự ra đời của Tự Lực văn đoàn đã mở ra con đờngmới cho tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Theo giáo s Hoàng Xuân Hãn trongTạp chí Sông Hơng cho rằng Tuy Tự Lực văn đoàn không phải là nhómduy nhất nhng lại là nhóm quan trọng nhất, nhóm cải cách đầu tiên của nềnvăn học Việt Nam hiện đại. Tự Lực văn đoàn bắt đầu từ năm 1932 và kếtthúc vai trò lịch sử vào năm 1944 bao gồm tám nhà văn, nhà thơ Nhất Linh,Hoàng Đạo, Thạch Lam, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ, Khái Hng, Trần Tiêu. TựLực văn đoàn đã có những cách tân quan trọng trong nghệ thuật tiểu thuyếthiện đại. Tính hiện đại hoá của thể loại đợc thể hiện rõ nhất trong việc nhà văntập trung khai thác thế giới nội tâm con ngời. Đây là một bớc tiến dài của tiểuthuyết Việt Nam hiện đại. Trong khi đó văn xuôi trung đại lấy quá trình sựkiện làm đối tợng trung tâm. Còn trớc đó tiểu thuyết "Tố Tâm" của HoàngNgọc Phách cũng đã miêu tả nhân vật có chiều sâu song mới dừng lại ở tâmlý trên mặt phẳng còn với tiểu thuyếtBớm trắng của Nhất Linh là hànhtrình bên trong của nhân vật. Tiểu thuyết Tự Lực văn đoàn đã thành côngtrong nghệ thuật miêu tả hành trình tự ý thức của con ngời cá nhân trong vănhọc Việt Nam hiện đại nửa đầu thế kỷ XX. Các nhà văn Tự Lực văn đoàn cũngđã đóng góp về mặt ngôn ngữ làm trong sáng tiếng Việt với một lối văn xuôimộc mạc, tinh tế, khúc chiết đợc tạo ra từ lời nói thông thờng của con tiểu thuyết hiện thực phê phán, đặc biệt là Nam Cao, Vũ TrọngPhụng thì quá trình hiện đại hoá tiểu thuyết mới đạt đến đỉnh cao, vơn tới mặtbằng chung của tiểu thuyết hiện đại thế giới cùng thời kỳ. Với thái độ nhậpcuộc tiểu thuyết của họ đã đề cập đến thực trạng xã hội hiện thời, đến thânphận con ngời phong phú, đa dạng hơn so với tiểu thuyết ở giai đoạn phôi thaivà với cả Tự Lực văn đoàn. Xây dựng không gian nghệ thuật phức tạp, đachiều, tạo dựng đợc nhân vật đám đôngđủ các tầng lớp, giai cấp xây dựng đợc nhiều điển hình độc đáo để đời, kết cấu linh hoạt, ngôn ngữ đa thanh, đagiọng. Mỗi nhân vật nói một giọng riêng theo tầng lớp, đẳng cấp, ngành nghềrất sinh động. Đó là thứ ngôn ngữ đợc cá thể hoá một cách triệt thuyết Việt Nam hiện đại vận động, phát triển theo một quy luật vàquy kết ở ba phơng diện sau= 20 =Từng bớc thay đổi quan niệm nghệ thuật về con ngời, nhìn chung ngàycàng toàn diện hơn, sâu sắc hơn và nhân văn hớng tiểu thuyết ngày càng đi sâu khai thác thế giới nội tâm của ngữ đợc hiện đại hoá đi từ ngôn ngữ mang tính chất khẩu ngữ đếnngôn ngữ trong sáng, gọt rũa đơn điệu và đến ngôn ngữ gần gũi với đời sốngthờng ngày của con ngời đa nó tiến dần tới hiện 2"Tố Tâm" nhìn từ góc độ thể loại tiểu Giới thiệu khái quát về Hoàng Ngọc Phách và "Tố Tâm" Hoàng Ngọc Ngọc Phách1896-1973 tên huý là Tớc, tên trong giấy khai sinhlà Hoàng Ngọc Phách, khi bắt đầu cầm bút đặt biệt hiệu là Song An. Là conthứ sáu trong một gia đình nhà nho có tám ngời con trai ở làng Đông Thái, xãYên Đồngnay là xã Tùng ảnh, tổng Việt Yên, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. 10tuổi đã giã từ quê cha đất tổ theo bố mẹ ra sống hẳn ở ấp Đông Côi, huyệnThuận Thành, tỉnh Bắc NinhHà Bắc ngày nay. Dù vậy từ giọng nói đến tácphong, lối sống Hoàng Ngọc Phách vẫn giữ nguyên cốt cách xứ Nghệ ra trong một gia đình nhà nho, bố lại là một ông đồ nho sẵn có ýmuốn giúp con tiến thủ bằng con đờng học vấn, các anh trai của Hoàng NgọcPhách tự lập sớm và thành công trên con đờng công danh sự nghiệp, nên conđờng học tập của ông rất thuận buồm xuôi gió. Năm 1911 ra Hà Nội với haianh và theo học trờng cụ Bùi Đình Tá ở ấp Thái Hà. Năm 1912 nhân kỳ thikhoá sinh mở, thi cả chữ Nho và chữ Quốc ngữ, ông đã đi thi và đỗ trờng 1914 đỗ bằng Tiểu học Pháp Việt tại Hà Nội. Cùng năm đó ông thi vàotrờng trung học Bảo hộ trờng Bởi và trúng tuyển. Nhờ học hành chăm chỉ,ông đợc cấp học bổng vào lu 20 tuổi ông lấy vợ tên là Phan Thị An kém ông hai 1919 thi đỗ trờng Cao đẳng, năm 1922 tốt nghiệp và đợc bổ vềdạy học ở trờng thành chung Nam Định. Con đờng của một nhà giáo khôngmấy bằng phẳng vì phải liên tục chuyển chỗ ở. Đến năm 1935, Hoàng NgọcPhách xin chuyển về Bắc Ninh và đây sẽ là nơi ông trụ lại lâu dài. Với uy tíncủa một nhà giáo,ông đợc nhiều học sinh và đồng nghiệp kính trọng. Ông đợcthăng Giáo s thợng hạng hạng nhất và lần lợt nhận nhiều phần thởng nh Hàn= 21 =lâm bội tinh của Pháp 1941, Hồng lô tự khanh 1942 và Kim tiền hạngnhất1943. Cách mạng tháng Tám thành công, Hoàng Ngọc Phách giữ nhiềuchức vụ quan trọng nh Giám đốc học khu Bắc Ninh, bầu vào Uỷ ban hànhchính tỉnh 1945, Hội đồng nhân dân tỉnh 1946...Hoàng Ngọc Phách là ngời có năng khiếu về văn chơng, lại ham mê đọcsách, ông đã đọc rất nhiều loại sách nh luận thuyết, văn chơng truyền bá quanđiểm tự do bình đẳngcủa cách mạng t sản Pháp, sách triết học, tâm lý học... vàđặc biệt là thể văn lãng mạn thế kỷ XIX, mạnh nhất là trờng phái của VictorHuy gô nên ông đã sáng tác thơ từ rất sớm và có lần đã đạt giải thứ tám trongcuộc thi thơ, đây là giải thởng mở đầu cho cuộc đời cầm bút của phải đến năm 1918 thì thơ văn Hoàng Ngọc Phách lần đầu tiênmới đợc đăng trên tờ Nam Phong tạp chí. Tên tuổi của ông trở nên nổi tiếngvà đợc nhiều ngời biết đến và trở thành một trong những nhà văn có vai trò, vịtrí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc phải chờ đến cuốn "Tố Tâm".Hoàng Ngọc Phách đã tiếp thu những thành tựu của tiểu thuyết cổ điển, nângthể loại tiểu thuyết lên một bớc mới - tiểu thuyết tâm lý. Chính vì vậy ông đợcxem là ngời khai mạc nền tiểu thuyết mới và văn xuôi lãng mạn Việt Namhiện đại. Có thể nói tài năng nghệ thuật của Hoàng Ngọc Phách đợc kết tinh ởtiểu thuyết "Tố Tâm".Số lợng tác phẩm mà Hoàng Ngọc Phách để lại không nhiều, có thể kểmột số tác phẩm tiêu biểu sau tiểu thuyết "Tố Tâm" 1925, Thời thế với vănchơng 1941, Đâu là chân lý 1941, Chuyện Trờng Bởi 1989,Chuyện trờng cao đẳng s phạm 1989... Đề tài - chủ đề - nội dung t tởng của "Tố Trong lịch sử văn học chúng ta, có những cái mốc cứ ngỡ có thểtuỳ tiện đặt ra hay bỏ đi mặc ý. Nhng đấy chỉ là trờng hợp những cái mốc hìnhthành do ý muốn chủ quan của nhà nghiên cứu. Còn nếu quả thực tiến trìnhkhách quan của văn học đã báo hiệu một cái mốc nh vậy thì dù muốn haykhông cũng cứ phải chấp nhận. Ngày nay, sau 80 năm đọc lại "Tố Tâm" chúngta vẫn cảm đợc rất rõ nguồn sống tiềm tàng trong sách, tiếng nói thời đại hằnlên từng trang vẫn không hề phai. Sức mạnh của "Tố Tâm" chính là ở đấy. Nhng nó không phải là một câu chuyện kể về nhân tình thế thái, ở đó có đủ mọicảnh đời mực thớc và đảo điên, có những con ngời lơng thiện và giantrá,những số phận may mắn và bất hạnh... bện chặt lấy nhau, hoạt động nhnhững trò rối trớc mắt độc giả. Những mô hình tiểu thuyết loại này vào đầunhững năm 20, nhìn trong thể tài và ngôn ngữ văn xuôi tiếng Việt thì đã có= 22 =phần mới mẻ, nhng về chủ đề và kết cấu không làm ai ngỡ ngàng cho lắm, vìđã thấy phảng phất ở đâu đó rồi, t duy nghệ thuật truyền thống cũng đã từngđả động đến nó rồiGẫm cời hai chữ nhân tình éo le...Lục Vân Tiên-Nguyễn Đình Chiểu.Đó là loại truyện thế sự mà Hoàng Ngọc Phách không làm. Ông khôngcó tham vọng phanh phui mọi ngóc nghách cuộc đời mà chỉ thu hẹp lại ở mộtgóc bức tranh xã hội kể một câu chuyện tình. Đề tài của "Tố Tâm" là đề tàitình yêu xuyên suốt từ đầu cho tới cuối tác phẩm. Nhng đây không phải là mộtcâu chuyện tình yêu gay cấn, ly kỳ thờng thấy trong các truyện thơ tài tử giainhân mà theo trình tự muôn thửơ cặp tình nhân trong truyện sẽ bị đẩy vàomọi tình huống phức tạp hội ngộ, trắc trở, lu lạc, đoàn viên... để thoả mãn trítò mò của ngời đọc. "Tố Tâm" trái lại là câu chuyện tình hết sức đơn giản củahai ngời trẻ trung, tài sắc gặp gỡ quen biết và yêu nhau. Đạm Thuỷ là một sinhviên Trờng cao đẳng rất yêu văn học, tâm lý học, xã hội học, có hoài bãođem những khoa học ấy mà so sánh với lý tởng á Đông và lấy quốc văn màdiễn ra một thứ luân lý s phạm... thích hợp với tính tình ngời Việt Nam [5,182] và đã có thơ văn đăng báo. Sự mất ví của Đạm Thuỷ trong một chuyến vềquê và sự ân cần chu đáo của quan huyện sở tại đối vơí Đạm Thuỷ đã tạo cơhội cho chàng gặp Tố Tâm, con gái của bà án ở số nhà 58, phố X, Hà Nội. Côgái lúc còn bé học chữ Nho, sau học trờng Pháp-Việt, đỗ sơ học, yêu văn chơng sầu cảm lãng mạn và hay tập làm thơ sầu cảm lãng mạn đã thầm yêu ĐạmThuỷ từ khi đọc văn thơ của chàng đăng trên báo, yêu chàng trớc khi biết mặtchàng. Tình cờ hai ngời gặp nhau và tình trong nh đã mặt ngoài con e. Tìnhyêu thầm lặng ấy kéo dài cho đến một hôm khi Đạm Thuỷ phát hiện đợcmảnh giấy vẽ hai chữ viết tắt tên mình và của ngời yêu VL dới đáy tráp củaTố Tâm thì hai ngời mới thật sự hiểu rõ lòng nhau. Đạm Thuỷ và Tố Tâm chỉmới thấy và thở hít khói hơng của ái tình nghi ngút bay. Có gì mạnh hơnnh cảnh này Nàng gục đầu vào vai tôi nh sắp ngã xuống, tôi phải đỡ lấynàng. Nớc mắt nàng thấm ớt cả vai áo, đầm đìa chảy xuống ống tay và ớt cảcavát vì nàng lấy lau mặt. Giữa họ, thì đó là lúc họ đang khổ đau vì ái đình Đạm Thuỷ không biết tình yêu giữa Tố Tâm và Đạm Thuỷ nên đãđính hôn cho chàng một cô gái ở quê mà hai gia đình lâu nay đã đi lại vớinhau, chỉ đợi Đạm Thuỷ học xong là cới. Còn gía đình Tố Tâm, bà án khi biếttình yêu của hai ngời cũng chỉ ra ý giữ gìn chỉ vì Đạm Thuỷ không dạm hỏiTố Tâm, nên bà án khuyên Tố Tâm lấy cậu tú B, ngời dạm hỏi con gái bà và= 23 =đợc bà ng ý. Khi Tố Tâm kiên quyết từ chối cậu tú B, bà án định lấy oai connhà gia pháp, cha mẹ bảo phải vâng lời nhng rồi cũng nghĩ lại, không nỡ épcon Thuỷ lấy lời phải trái mà khuyên nàng vâng lời giáo huấn cũngkhông lay chuyển đợc lòng Tố Tâm Em đã yêu anh thì không thể yêu ai đợcnữa, mà cũng không muốn yêu ai. Đã không yêu thì không lấy vì sợ làm phiềncho một ngời nam nhi nữa [5, 235]. Nhng rồi bà án ốm nặng. Vì tình mẫu tử,Tố Tâm đành phải nhận lời lấy cậu tú B, nhng ngay từ trớc hôm cới, nàng đãnh ngời mất hồn. Tố Tâm ốm và ba mơi sáu ngày sau nàng chết. Mối tình thathiết của nàng đối với Đạm Thuỷ chỉ còn lại một cái tráp Nhật Bản đựngnhững lá th và nhật ký của Tố Tâm. Trong di bút gửi lại cho Đạm Thuỷ, nàngviết Rồi đây, sau khi hơng tàn khói tỏa, có lúc nào anh qua chỗ em an giấcngàn năm này, nhờ anh đề hộ vào gốc cây, tảng đá hay bức tờng mấy chữrằngĐây là mồ một ngời bạc mệnh chết vì hai chữ ái tình[5, 281]Những chuyện tình nh thế thông thờng hẳn không ai để ý làm gì bởitrong văn học Việt Nam đã có biết bao nhiêu câu chuyện tình yêu nh vậy rồinhng vào tay Hoàng Ngọc Phách đã bất ngờ gây nên cả một làn sóng xúc cảmdây chuyền và làm thay đổi cách nhìn độc giả. Độc giả không còn đứng ngoàivận mệnh các nhân vật để xót thơng hay căm giận, để khen ngợi hay chê baimà tham gia vào câu chuyện nh một nhân vật hoá thân để có thể sống vuibuồn, hờn ghen cùng nhân vật. Vừa đọc đợc một phần đầu tâm hồn đã thấymê man chìm đắm với câu chuyện vui thú êm đềm hình nh mình đã bị bao bọctrong một hoàn cảnh riêng đầy rẫy những tình yêu đằm thật Hoàng Ngọc Phách đã không chỉ kể một câu chuyện tình, ôngcòn giúp bạn đọc mở một cánh cửa đi vào thế giới bí ẩn của tình yêu. Nói nhTrúc Hà Nay đã có ngời chịu khó đem ngọn bút tinh tế vẽ vời mọi nỗi u uẩn,ly kỳ bí mật của ái tình ra một cách rõ ràng, sáng sủa, lắng nghe từ cái nhịpcủa quả lòng để nhận hiểu cái ý nghĩa của nó khi mừng giận lúc thơng yêu,tách bạch những mối tình cảm âm thầm thuở nay mình vẫn bị sự sai khiến củanó mà không tự hiểu [5, 529].Đã đành đó là cánh cửa không hẳn mới lạ đối với đại đa số ngời Việtnh Truyện Kiều, Sơ kính tân trang chẳng đã mở rồi còn gì, nhng mới lạ ởchỗ nó mở một cách đột ngột, trực diện, không có một duyên cớ gì khác bênngoài tình yêu dẫn dắt hoặc che khuất cõi lòng hai con ngời này. Chúng cứ thểhiện ra với tất cả sự lạ lùng, với vẻ đẹp đơn sơ, chân chất và cả sự ngang tráiđa đoan đủ làm ngời ta say đắm.= 24 = Đề tài của tiểu thuyết "Tố Tâm" là câu chuyện tình yêu nam nữ,rất quen thuộc và phổ biến nhng chủ đề phản ánh lại hoàn toàn mới mẻ, phùhợp với xu thế của thời bấy giờ, đó là "Tố Tâm" đã đoạn tuyệt với loại truyệnđạo lý, bắt nhân vật phải biểu trng cho lòng trinh bạch và đức hạnh để bớcsang loại truyện chống lại lề thói, lấy những việc làm bất hợp pháp và nhữngmối tình bị cấm đoán làm nội dung phô đó vấn đề trung tâm ở đây hiển nhiên là vấn đề ái tình. Ngời Tây vàsách Tây đem vào xã hội ta nhất là lớp thanh niên tân học một quan niệm mớivề tình yêu nam nữ, một quan niệm dồi dào, phức tạp, mãnh liệt cổ nhân ta cha từng biết tới. Tác giả lấy Đạm Thuỷ, Tố Tâm làm một trờng hợp tuy hơi sớmđối với đại đa số nhng có thể coi là một thí dụ điển hình. Cái tình yêu ĐạmThuỷ, Tố Tâm ở đây có gì đặc biệt? Đó là một tình yêu tri kỷ, bình đẳng. Họquý nhau vì tôn trọng nhau về đức, hợp nhau ở những ý hớng, những sở phải sự ham nhau ở đầu mày cuối mắt mà là sự hoà hợp của hai tâmhồn tìm đến nhau trớc. Tố Tâm mới đọc văn Đạm Thuỷ mà đã thấy Sao anhhợp tâm trí với em vậy, rồi từ khi biết ngời, đợc trò chuyện, trao đổi thì tởngnh hai linh hồn trời sinh ra để quấn quýt bên nhau, giao hoà cùng là một tình yêu thơ mộng đợc nuôi dỡng trong hơng vị văn chơng tôđiểm bởi trí tởng tợng, đợc đặt vào những mỹ cảnh tạo vật, đợc nghệ thuật hoátới mức tối cao. Đạm Thuỷ và Tố Tâm đều là những tâm hồn thi nhân mà tìnhyêu đến chính là một cơ hội tốt để rung động và tạo ra bao nhiêu mỹ cảm. Họtô vẽ cho nên một cảnh huống ly kỳ, thổi vào đó cái hồn cao sơn lu thuỷ đẩylên tới tầng trời lý tởng. Chúng tôi tởng tợng ra nh vũ trụ chỉ có hai ngời màthôi, bao nhiêu những thờng tình eo hẹp những thảm cảnh lôi thôi, bao nhiêutiếng khóc câu cời, đờng danh mối lợi ở chốn phồn hoa đã chìm đắm đâu mấtcả, trớc mắt chỉ còn thấy khói hơng của ái tình nghi ngút bay trong đám títmù, khiến cho hai ngời tơng tri đó tởng là đôi chim nhạn đơng cùng nhau tungtrời mà bay[5, 229]Đó là một tình yêu đợc ý thứcnhững vai tuồng yêu đơng đây khôngphải là những con cờ để mặc bản năng sai khiến. Tuy tình yêu cũng làm chohọ say sa, nhng không phải nh ngời dốc cả bầu rợu một hơi để rơi vào chỗ vôgiác, vô tri. Khác thế họ nhắp từng miếng nhỏ, nghe ngóng cảm giác kiểmsoát đợc sự lan tràn từng làn nhiệt lợng. Đạm Thuỷ khi bớc vào biết đựơcmình đi tới đâu, ghi nhân từng giai đoạn, từng biến đổi. Tố Tâm cũng vậy,trong th tình và nhật ký cúi xuống tâm hồn mình hỏi han, phân tích. Đó lànhững con ngời tri thức mới, bắt đầu làm quen với nếp sống bên trong. Cũng= 25 = Tác phẩm Tố Tâm của nhà văn Hoàng Ngọc Phách được coi là tiểu thuyết tâm lý đầu tiên của nước nhà, cũng là tiểu thuyết Quốc ngữ đầu tiên ở miền Bắc Việt Nam. Những người đọc vội cho rằng đây là một tiểu thuyết diễm tình thông thường, nhưng sâu hơn thế, Tố Tâm là một câu chuyện ẩn chứa nhiều giá trị xã hội mới mẻ trong thời đại bấy giờ. Có thể bạn quan tâm Tác giả Hoàng Ngọc Phách và tác phẩm Tố TâmTác giả Hoàng Ngọc Phách xuất thân trong một gia đình có truyền thống hiếu học, yêu nước, cha ông từng tham gia vào phong trào Cần Vương. Thuở nhỏ, ông theo học chữ Hán rồi học trường Pháp Việt nên trong những tác phẩm của nhà văn này, chúng ta sẽ thấy tác giả khá chuộng dùng từ Hán thời gian sáng tác và dạy học, Hoàng Ngọc Phách còn tổ chức những buổi diễn thuyết và tổ chức đội kịch. Một trong những học trò được ông dìu dắt trong ngành nghệ thuật sân khấu chính là tác giả Thế Ngọc Phách sáng tác Tố Tâm khi ông còn khá trẻ, mới 23 tuổi, cùng lúc ông hoàn thành năm cuối khóa tại trường Cao đẳng Sư phạm, ban văn chương. Tố Tâm được coi là cuốn tiểu thuyết hiện đại đầu tiên của Việt Nam, mở đầu cho những tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ. Review sách Tố Tâm – Hoàng Ngọc PháchNội dung tiểu thuyết Tố TâmTố Tâm kể về chuyện tình buồn giữa nhà văn Đạm Thủy và cô gái tên Lan, được Đạm Thủy đặt tên là Tố Tâm. Thông qua những vần thơ, con chữ mà Đạm Thủy viết, Tố Tâm đã dành trọn tình yêu cho chàng dù hai người chưa từng gặp lần, chú của Tâm nhặt được chiếc ví Đạm Thủy đánh rơi, hai người gặp gỡ nhau theo sự sắp xếp của số phận. Tâm đã khiến cho Đạm Thủy cũng nảy sinh tình cảm với mình. Từ đó, tuy hai người ít gặp nhau nhưng lại thường xuyên gửi cho nhau những bức thư đắm say thương nhớ. Họ đã có lần hẹn nhau cùng đi chơi ở vùng quê và có thêm thật nhiều kỉ niệm đẹp. Đây là một mối tình nồng nàn, trong sáng, không hề pha chút sắc vậy, hai người đều biết đây là tình yêu vô vọng vì Đạm Thủy đã có hôn phối sắp đặt từ trước và Tố Tâm cũng biết rõ điều Tố Tâm ốm nặng, gia đình ép buộc nàng phải lấy chồng. Phần vì thương mẹ, phần vì được Đạm Thủy khuyên nhủ, Tâm đồng ý lấy người khác. Sau khi kết hôn, Tâm mắc tâm bệnh rồi ốm nặng, nàng qua đời chỉ sau ba mươi sáu ngày lên xe hoa. Sau khi đến viếng mộ Tố Tâm, Đạm Thủy nhận được những kỷ vật của nàng. Đạm Thủy quyết tâm học hành, lòng giữ hai điều vô cùng thiêng liêng. Đó là công danh sự nghiệp và mối tình cao thượng với Tố tư tưởng mới trong tiểu thuyết Tố TâmVới Tố Tâm, Hoàng Ngọc Phách đã dám cất lên tiếng nói bênh vực cho thứ gọi là “ái tình” – thứ thường bị các nhà Nho xưa khinh miệt, coi thường và không để ý tới. Tác giả đã có cái nhìn mới về tình yêu đôi lứa và sức mạnh của nó, rằng tình yêu là động lực to lớn thúc đẩy người ta dám làm tất cả. Tố Tâm đã dám chống lại những hủ tục, cô đi theo cái chết vì không chấp nhận được thực tại tù người nói rằng Tố Tâm tự tử vì tình nhưng theo tôi thì không. Tâm vốn là một cô gái nhen nhóm trong mình những tư duy hiện đại vì mới được tiếp xúc với lớp trí thức Tây học bấy giờ. Thay vì cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, Tâm đã vượt lên những định kiến rằng con gái phải e dè, kín đáo, giữ thế bị động trong tình yêu để chủ động bày tỏ cảm xúc với nửa còn lại của mình. Khi biết Đạm Thủy bị sắp đặt trong một cuộc hôn phối, Tâm vẫn kiên quyết với tình yêu của mình. Review sách Tố Tâm – Hoàng Ngọc PháchĐọc sách mà ngưỡng mộ thay người con gái Tố Tâm. Nàng hết lòng si mê người ta dù hai người chưa từng gặp mặt. Tình yêu của nàng được xây bằng cầu nối giữa hai trái tim đồng điệu, nó vượt lên những thứ tầm thường như ngoại hình hay gia cảnh tương xét về tiểu thuyết Tố TâmThứ đầu tiên phải nhắc đến trong tiểu thuyết Tố Tâm là nghệ thuật miêu tả tài tình của tác đầu với nghệ thuật khắc họa tâm lý nhân vật. Tuy là tiểu thuyết tình yêu nhưng không vì thế mà suy tư của nhân vật mất đi tính hợp lý. Các màn đối thoại giữa các nhân vật, độc thoại nội tâm hay ngôn ngữ người kể chuyện đều được sắp xếp rất đúng nhiên trong tiểu thuyết Tố Tâm cũng được miêu tả rất xứng với tình yêu đẹp của hai người. Thiên nhiên ở đây xuất hiện như một lối thoát cho những tâm hồn lãng mạn. Họ tìm đến nhau, rồi tìm đến thiên nhiên như để cùng giao cảm và tách biệt khỏi ý thức hệ phong kiến cầm tù. Thay vì lối mô tả ước lệ như trong những tác phẩm cũ, thiên nhiên trong văn của Hoàng Ngọc Phách hiện lên phong phú, sống động, rực rỡ và vô cùng chân thật. Review sách Tố Tâm – Hoàng Ngọc PháchMột số nhận xét cho rằng các sự kiện trong truyện còn dài dòng và tương đối dàn trải, nhất là trong các câu đối thoại, trích dẫn hay thư từ. Có những đoạn Tố Tâm và Đạm Thủy trao nhau những câu thơ Đường khuôn sáo, không hợp lý với hình ảnh những thanh niên theo trí thức Tây học thời bấy giờ. Lời kếtGần 100 năm đã trôi qua kể từ ngày đầu tiên tiểu thuyết Tố Tâm ra đời, có người khen thì cũng có kẻ chê. Dẫu vậy, Tố Tâm vẫn là một cái tên sáng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Cuốn tiểu thuyết kết hợp nhuần nhuyễn những ý niệm về tình yêu và những giá trị xã hội khiến công chúng bao đời vẫn nhớ tên. ĐỔI MỚI KẾT CẤU CỦA TIỂU THUYẾT “TỐ TÂM" MỞ ĐÂU NỘI DUNG Chương thuyết Tố Tâm và kết cấu văn xuôi trung đại Tiểu thuyết Tố Tâm Kết cấu thơ văn trung đại Chương cấu của tiểu thuyết Tố Tâm và tín hiệu đổi mới Cốt truyện lộn trật tự cốt truyện vở lối kết cấu hội ngộ-li biệt –đoàn viên Điểm nhìn trần thuật dụng lời trần thuật ngôi thứ nhất vật Không phân chia nhân vật thành hai tuyên nhân vật 2. Kiểu nhân vật gian –không gian gian nghệ thuật bị đảo ngược gian tâm lý Kể chuyện theo diễn biến tâm lý nhân vật và kết hợp vớiphương pháp dùng thư để nhân vật bộc lộ rỏ cảm xúc của mình KẾT LUẬN MỞ ĐẦU Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta đã khới động một loạt biện pháp cụ thể có tác dụng nhằm hiện đại hóa văn họcphổ biến chữ quốc ngữ,lập nhà in , xuất bản , bắt đầu dịch tác phẩm văn học pháp Mở đầu có thể nóiđến tác phẩm Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quảng năm 1887, đã đánh dấu việc cách tân tiểu thuyết Việt Nam theo hướng hiện đại hóa. Nhưng chỉ khi xuất hiện tiểu thuyết Tố Tâm mới thưc sự dược hiện đại hóa trên mọi phương là cuốn tiểu thuyết đúng với ý đồ và mong muốn của tác giả”viết về cuốn tiểu thuyết khác hẳn những quyển tiểu thuyết đã có, kể cả hình thức lẫn tinh thần” Từ Tố Tâm thì mười năm sau đã hình thành một khuynh hướng mới cho tiểu thuyết đương đại theo lối kết cấu tâm lý ái tình mà Tố Tâm đã mở ra, với vai trò của Tự Lực văn không chỉ đoạn tuyệt với lối viết cũ dụa vapf sụ kiện và cốt truyện, và cốt truyện càng có lắm tình tiết li ki càng tốt, mà cũng khác với tất cả tiểu thuyết cùng thời hoạc trước đó như Hồ Biểu Chánh, Trọng Khiêm, Nguyễn Trọng Thuật Tố tâm ra đời cũng như sự hình dung sự mong đợi của lớp người , hình dung của một lớp người vậy nó được sụ đón nhận nồng nhiệt của người đọc, một sự đón nhận mà trước dó chưa có tác giả nào có được. Vì vậy Tố Tâm mở đầu cho nền tiểu thuyêt mới, đồng thời tác phẩm khác sinh cho văn xuôi, lãng mạn Việt Nam thế kỉ XX với sự cách tân về nhiều phương biệt là mặt ngôn ngữ, kết cấu ,đề tài NỘI DUNGChương thuyết Tố Tâm và kết cấu văn xuôi trung đại thuyết Tố Tâm Cuốn tiểu thuyết nhăm kể về một câu chuyện tình duễn ra trong vòng hơn một năm,kể từ khi hai nhân vật chính là cô gái con nhà gia giáo TốTâm và chàng sinh viên Cao Đẳng Đạm Thủy ngẫu nhiêndo trời sắp đặt mà quen nhau rồi yêu nhau. Mối tình diễn ra rất mực tha thiết say đắm nhưng lại không đi đến hôn nhân vì ràng buộc ý thức hệ phong kiến và chế độ đại gia đình. Tố Tâm vì gia đình, vì chữ hiếu, vì người mình yêu mà phải buộc lòng hi sinh tình yêu đẹp của mình để bằng lòng với số phận,nhưng nàng dù đã yên bề gia thất nhưng không quên không nguôi nỗ nhớ với Đạm Thủy. Vì quá đau đớn,vì quá yêu Đạm Thủy nên cuối cùng kết thúc bi kịch bằng cái chết của Tố Tâm, một cái chết mang tính bi kịch nhưng không bi quan. Còn Đạm Thủy thì chế độ đại gia đình mà bằng lòng rời xa Tố Tâm, để cuối cùng dẫn tới bi kịch là cái chết của Tố Tâm. Có thể nói kết thúc như vậy là “vô hậu” theo lối kết cấu tiểu thuyết hiện đại,còn “có hậu”theo lối kết cấu chuyện cổ Thế nhưng sau bi kịch không mang tính bi quan mà lại mở ra lối kết cấu mới. Cái cũ tỏ ra thắng thế cái mới nhưng cái mới lại có đất hiện diện. Nhưng nếu họ cưỡng lại, muốn cưỡng lại, biết cách cưỡng lại thi có lẽ cuốn tiểu thuyết đã đi theo một hướng mới va không còn dư vị “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách. cấu văn xuôi trung đại niệm kết cấu - Khái niệm kết cấu Kết cấu được hiểu là sự sắp xếp, tổ chức xâu chuỗi tất cả các bộ phận khác nhau trong tác phẩm thành một trật tự nhất định. Nó tổ chức mối liên hệ giữa các yếu tố nội dung của tác phẩm tính cách & hoàn cảnh, hành động & biến cố… và hình thức bố cục, hệ thống, ngôn ngữ, nhịp điệu…. Ngoài cốt truyện, kết cấu còn bao gồm phần bình luận trữ tình phụ đề của tác giả. cấu thơ văn trung đại Kết cấu chương hồi Các tác phẩm văn học trung đại đều có kết cấu theo lối chương hồiKết cấu chương hồi là một phương diện thi pháp của tiểu thuyết chương độ bề mặt của kết cấu chương hồi là các chương hồi - các đơn vị kết cấu. Một chương hồi trong tiểu thuyết chương hồi thường có các dấu hiệu nhận biết cụ thể. Dễ nhận biết nhất là tác phẩm được chia thành nhiều hồi, mỗi hồi ứng với một sự kiện trong tác phẩm và được mở đầu bằng một câu hay một cặp câu văn thúc có hậu Trong văn xuôi trung đại thương là sử dụng lối kết cấu có như trong các tác phẩm nhưTruyện Kiều,Lục Vân Tiên tác phẩm thành 3 phân hội ngộ-li biệt –đoàn viên cấu theo hai tuyến nhân vật đối lập Lối kết cấu này được sử dụng nhiều trong văn học cổ. Nhà văn xây dựng hai tuyến nhân vật chính diện và phản diện đối lập nhau về lí tưởng, chính kiến, đạo đức, hành động Một bên đại diện cho lực lượng chính nghĩa, cái đẹp, chân lí. Một bên thì ngược lại. Hai lực lượng này đấu tranh không khoan nhượng với nhau và thường kết thúc với thắng lợi của lực lượng chính nghĩa. Hầu hết những truyện thơ Nôm ở Việt Nam sử dụng kết cấu này. Kết cấu này có tác dụng làm nổi rõ chủ đề tư tưởng thông qua so sánh, đối chiếu giữa 2 tuyến nhân vật đối lập. Tuy nhiên sự phân biệt khá rạch ròi giữa thiện và ác nhiều khi dẫn đến lí tưởng hóa hiện thực. Trong thực tế cuộc sống, các lực lượng xã hội có tác động qua lại, chuyển hóa cho nhau chứ không tồn tại một cách ổn định và tĩnh tại. Hình thức kết cấu theo 2 tuyến nhân vật đôi khi được trình bày không phải là sự đối lập mà là 2 tuyến song song, làm cơ sở để đối chiếu và hỗ trợ cho nhau. Ở đây mỗi tuyến tập hợp những kiểu người gần gũi với nhau về hoàn cảnh sống, về tính cách, đạo đức Có thể coi Anna Karênina của L. Tônxtôi được xây dựng theo hình thức kết cấu này. cấu tâm lí. ây là hình thức kết cấu dựa theo qui luật phát triển tâm lí của các nhân vật trong tác phẩm. Loại kết cấu này xuất hiện cùng với sự xuất hiện của các trào lưu văn học khẳng định vai trò của cá nhân trong xã hội. Kết cấu này thường dựa vào trạng thái tâm lí có ý nghĩa nào đó để sắp . Kết cấu theo trình tự thời gian. ây là dạng kết cấu phổ biến nhất trong văn học Việt Nam từtrước 1930. Theo kết cấu này, câu chuyện được trình bày theo thứ tự, phát triển trước sau của thời gian. Các sự kiện được sắp xếp, xâu chuỗi lại và lần lượt xuất hiện không bị đứt quãng. Hầu hết những tác phẩm chương hồi sử dụng lối kết cấu này. Ở đây, tác phẩm được chia thành nhiều chương, hồi théo sự phân bố về mặt hành động sự kiện của cốt truyện. Mỗi chương, mỗi hồi thường gắn liền với một giai đoạn nào đó của cốt truyện và nhiêu khi khá trọn ven, loại kết cấu này gíup người đọc dễ theo dõi câu chuyện nhưng nhiều khi lại đơn điệu xếp các sự kiện, nhân vật Chương cấu của tiểu thuyết Tố Tâm và tín hiệu đổi mới Cốt truyện lộn trật tự cốt truyện Đem kết cục để lên đầu rồi mới quay về tư đầu câu truyện,thỉnh thoảng đẩy đọc giả từ quá khứ về hiện biến truyện không còn theo tuyến tính lật ngược lại để cho truyện đi theo dòng hồi ức,thành một vòng tròn gặp gở giữa kết thúc và mở dung không có mấy hành động mà chỉ diễn biến tâm lí hai người yêu nhau,với những trở ngại được hiểu là từ bên ngoài-hai bên gia truyện với kết thúc đã biết trước nhưng niêm hứng thú vẫn nuôi dưỡng nội tâm nhân vật,sự say đắm hai tâm hồn yêu từ khi mở đầu tác phẩm Hoàng Ngọc Phách đã để cho đọc giả thấy trước kết thúc tác phẩm là cái chết của Tố Tâm“Ký giả mở ra xem thấy đây hộp thư bỏ vào ba cái phong bì trên đề mấy chữ”Tố Tâm di bút”,ở dưới phong thư ấy thấy mấy chiếc khăn thêu,hai chiếc nhẫn vàng,một cái kim vàng,đầu đính một đóa hoa lan nhỏ ”Rồi sau đó tác giả mới đưa độc giả trở về với tùng sụ kiện cốt giảđôi lúc đang ở hiện tại thì đưa độc giả trở về quá khứ,rồi người đọc đang chìm đắm trong quá khứ thì tác giả lại đưa vế với hiện văn học giai đoạn trước thì hầu hết cốt truyện dược diễn ra theo trình tự từ mở đâu đến kết thúc,từ quá khứ trở về tương lai chứ không có kiểu đảo lộn trật tự kết cấunhư Hoàng Ngọc vậy thì chúng ta có thể thấy thông qua tác phẩm Tố Tâm thi Hoàng Ngọc Phách đã làm đổi mới phần nào so với văn học trước kia. vở lối kết cấu hội ngộ-li biệt –đoàn viên. Tố Tâm đã phá vỡ lối kết cấu truyền thống của truyện thơ Nôm giai đoạn trước, không chia tác phẩm thành ba phần hội ngộ, biệt ly, đoàn viên mà thay đổi nó bằng cách kết truyện không có hậu, cuối cùng Tố Tâm cũng chết. Kiểu kết thúc này thường gặp ở những tiểu thuyết giai đoạn sau này, nhất là trong tác phẩm của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Nhưng Hoàng Ngọc Phách không phải là người đầu tiên sử dụng lối kết không có hậu này, trong Thầy Lazarô Phiền Nguyễn Trọng Quản cũng đã sử dụng lối kết này. Có thể nói sự đổi mới này là kết quả của việc tiếp thu văn học phương Tây đặc biệt là văn học Pháp của các trí thức Tây học, trong đó có Hoàng Ngọc Phách. Với việc sử dụng kết thúc không có hậu, Tố Tâm phần nào đã phản ánh được hoàn cảnh giao thời của xã hội lúc bấy giờ khi diễn ra sự mâu thuẫn giữa quan niệm đạo đức cũ và quan niệm đạo đức mới du nhập từ phương Tây sang. Thiếu Sơn trong “Lời phê bình của một độc giả” cũng đã nhận thấy được điều này Đọc sách “Tố Tâm” ta phải nhận thấy cái chỗ yếu hèn của luân lí nước nhà, vì nó mà một giai nhân phải giã thế từ trần để lại một bực tài tử phải sống mà nuốt lệ. Nhà văn đôi chỗ ngắt quãng câu chuyện chen vào đó những đoạn đối thoại của ký giả và Đạm Thủy và vài bức thư của Tố Tâm gởi cho Đạm Thủy. Như vậy có thể nói trong Tố Tâm có hai câu chuyện đồng thời được kể lại song song với nhau một là cuộc trò chuyện giữa Đạm Thủy và ký giả, hai là chuyện tình Đạm Thủy – Tố Tâm. Mặc dù kể song hành như vậy nhưng mạch truyện vẫn diễn ra bình thường, logic không gượng ép. Ngược lại chính nhờ cách kể này mà câu chuyện dường như thật hơn, người người đọc càng tò mò hơn, hồi hộp theo dõi diễn biến câu chuyện hơn. Thật ra cách đảo lộn thời gian này đã được Nguyễn Trọng Quản sử dụng từ năm 1887 trong tiểu thuyết Thầy Lazarô Phiền, nhưng đó chỉ là bước thử nghiệm đầu tiên, phải đến Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách biện pháp này mới phát huy hết hiệu quả. Điểm nhìn trần thuật dụng lời trần thuật ngôi thứ nhất Sử dụng lơi trần thuật la cách viết mới mẻ,chua từng thấy ở đâu trongtruyện ,tiểu thuyết giai đoạn lẽ,đi theo mạch hối cố của nhân vật thùtất cả mọi tình tiết dều mang dấu ấn tâm trạng của chỉ một cá dụng lời trần thuật của ngôi thứ nhất là thủ pháp thấy nhiêu nhất trong tiểu thuyết tình cảm của Châu Âu thế kỉ thứ thể nói trước Tố Tâm thì Nguyễn Tọng Quảng cũn đã sử dụng lơi trần thuat ngôi thứ nhất này,nhưng chỉ khi đến Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách mới thật sự thành công,mang lạidấu ấn riêng của tác ngọc Phách đã mở đầu cho lối viết này và có tác dụng “cắt đứt sợi dây liên kết với truyền thống.”.Nhưng với cách viết này rất dễ rơi vao lối viết chung chung,giọng tự sự, đơn điệu. Hoàng Ngọc Phách đã biết cách tránh đi sự đơn điệu này bằng nhiêu cách như đảo lộn trật tự cốt truyện Ông còn thêm vao nhiều đoạn độc thoại nội tâm qua ký vàthư,những đặc tả và đối thoại xen trong trần thuật,có thêm nhân vật kí giả. Đang đứng ở vị trí Đạm Thủy chờ mong ngóng Tố Tâm,người viết nhảy sang chỗ đứng của kí giả nhin vào Đạm Thủy và thay Đạm Thủy theo dõi diễn biến tình cảm của Tố Tâm. “Sáng hôm sau người coi của trường đưa tôi một phong thư,nhìn chữ biết là của nàng, trong long thấy chuyến động, lại tưởng là bức thư vĩnh biệt mà những giọt nước mắt hôm đó đã mấy chén quan hà Đạm Thủy nói đến đó mà mở hộp đưa cho kí giả mà nói rằng “Thư đây anh xem lấy cho tôi nghỉ một tí”.Đạm Thủy tựa lưng vào ghế, ngửa đầu ra sau rồi gọi “bồi” lấy nước ” Đang đứng ở vị trí người trần thuật là Đạm Thủy người viết lại miêu tả và đặc luôn Đạm Thủy vào trong cuộc, tìm ra một lăng kính đẻ nhằm thông quahình ảnh khúc xạ của Tố Tâm mà thấu hiểu được tâm lý của Đạm Thủy“Trong ngần ấy cô thiếu nữ cái đẹp Tố Tâm lại càng được rỏ rệt mười phần làm cho Đạm Thủy thấy trong mình lúc đó nảy ra một thứ kiêu căng, kiêu căng của ái tình, vì khi mà Tố Tâm dạo qua đó thì mười mấy con mawys cũng nhìn theo”. Có thể nói dòng trần thuật ẩn hồi trong hồi cố đã giúp tác giả đưa tác giả đến thành công với tiểu thuyết Tố Tâm. vật Không phân chia nhân vật thành hai tuyên nhân vật Hoàng Ngọc Phách không phân chia nhân vật của mình làm hai tuyến chính - tà, thiện – ác như trong các truyện thơ Trong Tố Tâm Nôm, vì vậy xung đột truyện không gay gắt, chủ yếu là xung đột trong nội tâm nhân hồi tưởng. Nhà văn không kể lại câu chuyện theo trật tự từ trước đến sau gắnliền với sự phát triển cuộc đời nhân vật, mà đảo lộn trật tự thời gian đơn tuyến ấy. Mở đầu truyện nhà văn không giới thiệu về nhân vật chính và hoàncảnh gia đình của các nhân vật chính mà lại giới thiệu về hoàn cảnh nhà văn tự xưng là ký giả gặp Đạm Thủy, tình cờ trông thấy kỷ vật của mối tình đầu của chàng. Sau đó, tác giả để nhân vật tự kể lại chuyện tình của mình. Trong quá trình nhân vật kể lại câu chuyện, quả nghệ thuật của nó. gian tâm lý Hoàng Ngọc Phách biêt đặt mối tình của Tố Tâm và Đạm Thủy vào trong khung cảnh thích hợp, rất ăn nhập với cục diện từng chặn đường của họ. Khi mới bắt đầu quen biết quen hơi bén tiếng, họ chỉ có thể miên mang chuyện trò trong cảnh trí một thư phòng. Không gian lúc đó phán ánh sự mực thước của một mối tình vượt qua ranh giới tình bạn nhưng chưa ra ngoài khuôn phép. Nhưng tình cảm đôi bên nay càng ngày càng lớn mãi lên,ngôi nhà số 58 phố X tror nên chật chội. Cái cảm giác bắt hai người phải giử gìn ý tứ- chàng không đến nhà nàng nữa, và nàng bớt trò chuyên với chàng trước mặt mẹ, cũng chính là một thôi thúc buộc họ tim đến chân trời rộng mở hơn. Và thế tình yêu đã được mở gian lấp lánh những vung ánh sáng rực rỡ của một mối tình đang đọ chín. Nếu không gian chỉ rút lại một hình ảnh Tố Tâm thì đó hẳn là không gian riêng của Đạm Thủy. Nhưng một không gian tấp nập đông người mà có hai người đối thoại ngăm với nhau và chỉ có nhau mới hiểu thì đúng là không gian cộng hưởng của tình yêu. Hoàng Ngọc Phách đã đặt họ vào không gian của đêm trăng nhưng họ không thấy ai cả họ chỉ biết mấy chữ là tí hiệu tình yêu của riêng họ,mà chỉ hai người họ mới hiểu. Kể chuyện theo diễn biến tâm lý nhân vật và kết hợp với phương pháp dùng thư để nhân vật bộc lộ rỏ cảm xúc của mình Kể chuyện theo quá trình diễn biến tâm lí của nhân vật, kết hợp với phương pháp dùng thư để nhân vật dễ dàng bày tỏ cảm xúc bản thân, vì vậy tác phẩm này có chất tự thuật cao. Bên cạnh đó Hoàng Ngọc Phách còn sử dụng lời bạt đầu truyện, coi mình là một ký giả trung thành, trò chuyện cùng nhân vật, ghi chép lại và đóng vai một độc giả bình luận câu chuyện. Điều này càng làm tăng tính “thật” của câu chuyện, tạo cho người đọc cảm giác tin cậy vào câu chuyện. Có thể nói hình thức dùng thư để để kể diễn biến câu chuyện là một cách tân vô cung mới so với trước đây,vi trước đây chưa có tác giả nào thành công với phương pháp nay, mặt khác tác giả cũng dùngnhững lá thu này để cho Đạm Thủy bộc lộ cảm xúc của minh đối với ngươi mình yêu là một cách tân vô cung mới mẻ. Đây cũng là một cách tân mới của Hoàng Ngọc Phách so với tiểu thuyết trước kia. KẾT LUẬN Như vậy, về kết cấu Tố Tâm đã có những nét đổi mới theo hướng hiện đại. Mặc dù nhà văn cũng có sử dụng lối viết biền ngẫu, ngôn ngữ bóngbẩy…của thi pháp cổ điển nhưng nó vẫn được đánh giá là mới hơn so với các tác phẩm trước đó và cùng thời. Đó là một thành công lớn của Hoàng Ngọc Phách, mở đường cho tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn sau này phát triển. Sau khi Tố Tâm ra đời nó đã gây ra một làn sóng mới trong văn học Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. Người ta tranh nhau đọc và sững sờ trước cái mới của nó. Đây là điều đáng chú ý, bởi vì Tố Tâm ra đời sau ThầyLazarô Phiền của Nguyễn Trọng Quản đúng 38 năm. Trong Thầy Lazarô Phiền, Nguyễn Trọng Quản cũng đã có những cách tân về mặt nghệ thuật và nội dung, nhưng sau khi ra đời nó nhanh chóng bị rơi vào quên lãng. Điều này do nhiều nguyên nhân chi phối về xã hội vào năm 1887 độc giả vẫn chưa quen với cách viết mới nên không dễ dàng đón nhận nó, về mặt nghệ thuật Nguyễn Trọng Quản tuy có những đổi mới đáng kể nhưng vẫn chịu ảnh hưởng của lối viết văn biền ngẫu, lối kể chuyện tự thuật…Tuy nhiên sở dĩ Tố Tâm có sức hấp dẫn như vậy là vì nó là quyển tiểu thuyết tâm lí đầu tiên của văn học Việt Nam. Và có thể nói thành công lớn nhất của Hoàng Ngọc Phách là nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, điều này sẽ được trình bàyở phần sau. Nhưng sự cố gắng phi thường của bút tiểu thuyết gia Hoàng Ngọc Phách trên nhiều mặt cũng đã dành được những thành công vể vang. Trước hết là sự đong góp của ông danh cho thể loại tiểu thuyết hiện đại này. Nếu so sánh với các tiểu thuyết chương hồi ra đời trước Tố Tâm, cuốn tiểu thuyết của ông có phần quá dung dị nhưng lại đem đến thành công lớn,mở đường cho tiểu thuyết tâm lí thế kỉ XX. TÀI LIỆU THAM thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam- Trần Đình sư Nguyễn Huệ Chi- Tố Tâm từ góc nhìn thi pháp sư Phong Lê Hoàng Ngọc Phách với “Tố Tâm”.

tiểu thuyết tố tâm