tiếng đàn kêu tích tịch tình tang

Hôm qua, ngày 29/09/2018 báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam đăng bài viết "Sự thật sau bức ảnh thành viên phái đoàn Việt Nam ngủ say tại phòng họp LHQ", nhưng chưa đầy một ngày sau đã phải gỡ bỏ bài báo này. Hiện trên Google vẫn còn lưu dấu tích của nó. 19-5-1890: Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân Việt Nam, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới, Người đã hiến dâng trọn cuộc đời mình cho độc lập của Tổ quốc và tự do Kho tàng với hàng trăm Truyện cổ tích Việt Nam và Thế Giới cùng hàng ngàn Truyện ngụ ngôn, Truyện dân gian và những câu chuyện quà tặng cuộc sống ý nghĩa. Người đàn bà tiết liệt. Ngày xưa ở vùng Bắc Ninh là đất nổi tiếng có nhiều con gái đẹp, có một cô gái làng Diễn đàn tại Beirut là sự kiện thứ tư trong số 5 hội nghị bàn tròn khu vực do Ai Cập khởi xướng trong vai trò Chủ tịch COP27, phối hợp với các Ủy ban khu vực của Liên hợp quốc, các đại diện cấp cao của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu và Liên minh tài chính Đàn kêu "tích tịch tình tang" thấm đẫm linh hồn Việt Nam vào từng dòng máu, tấc đất. Với những âm hưởng du dương, trầm lắng tạo nên nét đặc trưng của bản sắc văn hóa Việt. Những đêm trăng sáng, tiếng đàn vang vọng khắp đồng ruộng, núi đồi. Ngày nay, guitar Nghe tiếng đàn khuya như xót phận cơ hàn. Hò 20 Thủy tề Vương vì đáp đền ơn cứu tử nên đã tặng đàn khi trở lại trần gian. Xê 24 Đàn kêu tích tịch tình tang, ai chém đặng đầu Chằn miếu hoang. Xang 28 Đàn kêu Bà Khá lên thang, để tôi ở lại trừ an Mãng Xà. Hò 32 Vọng App Vay Tiền. 🎼🎶🎶Đàn kêu tích tịch tình tang🎶🎶🎼 🎼🎶🎶Ai mang công chúa dưới hang trở về🎶🎶🎼 Có bạn nào muốn biết hang động năm xưa Thạch Sanh giết đại bàng tinh cứu công chúa ở đâu không? Câu chuyện cổ tích Thạch Sanh- Lý Thông đã quá quen thuộc và gắn liền với tuổi thơ của mỗi người trong chúng ta. Nhưng các bạn có thắc mắc là hang động nơi Thạch Sanh năm xưa giết chết đại bàng cứu công chúa Quỳnh Nga có thật không hay chỉ là sản phẩm của cổ tích. Ngày hôm nay, chúng ta cùng khám phá và tìm câu trả lời trên nhé. Vị Trí Thạch động thuộc xã Mỹ Đức, thành phố Hà Tiên. Nằm cách thành phố Hà Tiên 3km về hướng Tây Bắc. Từ Thạch động có thể nhìn thẳng sang nước bạn Campuchia. Đứng từ phía xa có thể thấy được Thạch động là một khối đá vôi khổng lồ sừng sững cao hơn 50m, trên vách đá có một hình dạng khuôn mặt do tự nhiên tạo tác đầy huyền bí. Thạch động nằm trong top 10 cảnh đẹp không thể bỏ qua khi đến Hà Tiên, từng xuất hiện trong tập thơ Hà Tiên Thập Cảnh nổi tiếng của Mạc Thiên Tích với tên tiếng Hán là Thạch Động Thôn Vân có nghĩa là động đá nuốt mây. Sở dĩ có tên gọi như vậy là do cảnh tượng thiên nhiên buổi sáng mây thường bay là là trước miệng hang giống như cảnh động đá đang nuốt chửng từng cụm mây trời. Bên trong Thạch động có gì? Bước vào bên trong Thạch Động là một hệ thống hang động đá vôi vô cùng kỳ ảo với nhiều hình thù kỳ thú, bằng trí tưởng tượng của mình bạn có thể nhìn thấy được hình ảnh đầu chim đại bàng, công chúa Quỳnh Nga, ông Tiên... Bên trong Thạch động cũng là nơi toạ lạc chùa Tiên Sơn cổ kính được xây dựng từ năm 1790 thờ Phật Thích Ca và Quan Thế Âm Bồ Tát. Cổ tích và những dẫn chứng có thật Điều đặc biệt nhất ở Thạch Động có một con đường được người dân truyền tai nhau gọi là đường xuống Địa phủ, thực ra đây là một cái giếng sâu. Bên trong giếng chứa một cái hang rất sâu. Theo truyền thuyết người dân địa phương kể lại, thì chiếc hang này là nơi mà chim Đại Bàng tinh đã nhốt công chúa Quỳnh Nga và công chúa Thuỷ Tề. Thạch Sanh đã lần theo vết máu của chim đại bàng để đến đây. Từ thời ông Mạc Thiên Tích, dân địa phương truyền tai nhau là ông đã cho người xuống để khám phá độ sâu của cái hang, người lính được cử đi khám phá thấy hang rất là sâu không biết là dẫn đến đâu, sợ quá nên đã quay lên bẩm báo lại là chỉ nghe tiếng sóng thôi chứ không thấy lối ra. Đây có lẽ là giải thích cho con đường ngày xưa Thạch sanh đã đi xuống biển gặp vua Thuỷ Tề, biết đâu người lính năm xưa ráng đi thêm chút nữa sẽ đến được thuỷ cung gặp vua Thuỷ Tề giống Thạch Sanh rồi sao. Điều thứ hai là người dân địa phương đã khám phá hang bằng cách khắc chữ vào những trái dừa khô và thả xuống hang. Một thời gian sau những người đi biển ở vùng Hà Tiên, Phú Quốc đã lượm được những quả dừa khắc chữ. Sau này có những nhóm người đã thử xuống hang khám phá, nhưng một đi không trở lại. Chính vì sự tò mò của người dân, độ sâu của hang và rất những nguy hiểm chực chờ, nên cửa hang đã được lấp và xây lại thành miệng giếng từ năm 1960 giống như chúng ta đang thấy. Từ đường xuống địa ngục, len lỏi theo những vách đá về phía Đông, sẽ có một cửa hang thông thiên, khi ánh sánh rọi xuống người xưa gọi nơi này là Đường lên trời. Sở dĩ vì gọi là đường lên trời bởi trước đây có một sợi dây rừng kéo dài thẳng từ miệng hang xuống dưới đáy. Tương truyền là sau khi cứu công chúa Quỳnh Nga từ đường xuống địa ngục lên, sẽ buộc công chúa vào dây rừng và Lý Thông ở bên trên sẽ kéo thẳng lên, sau đó Lý Thông đã dùng đá lập cửa hang lại để Thạch Sanh không lên được. Ngày nay do khách tham quan thấy hiếu kỳ, cứ nắm kéo sợi dây, lâu ngày nó khô, mục và đứt. Tác hại của việc tham quan thiếu ý thức đó các bạn. Thiên nhiên như một người viết sử trung thành đã viết lên cho vùng biển Hà Tiên những câu chuyện cổ tích sống động gắn liền với tuổi thơ của bao thế hệ. Hy vọng các bạn sẽ có cơ hội đến vùng đất này để được nghe nhưng câu chuyện kể hấp dẫn và chân thật. Đàn là một trong những nhạc cụ chủ yếu trong âm nhạc. Riêng ở nước ta, tiếng đàn góp mặt vào đời sống âm nhạc từ rất lâu đời. Người miền Nam thường gọi là đờn; người miền Trung, miền Bắc gọi là đàn. Một quan niệm khác cho rằng những loại đàn do dân tộc ta sáng tạo hay cải biên thì thường được gọi là đờn còn những loại đàn du nhập từ ngoại quốc gọi là đàn theo ngôn ngữ chung. Trong bài viết này, chúng tôi thống nhất cách ghi đàn trong trường hợp gọi chung và đờn nếu có tên khu biệt đi kèm đờn cò, đờn gáo... Trong văn hóa dân gian của người Việt có không ít tác phẩm nói đến cây đàn. Chẳng hạn như câu chuyện “Thạch Sanh” với tiếng đàn ai oán Đàn kêu tích tịch, tình tang Ai mang công chúa dưới hang trở về Một số nhạc cụ trong ban nhạc Đờn ca tài tử Nam bộ. Từ trái sang đờn tranh tam thập lục, đờn cò nhị, đờn kìm nguyệt, đờn ghi – ta phím lõm. Người xưa quan niệm cái tài hoa của con người quy phạm trong “tứ nghệ” cầm, kỳ, thi, họa; trong đó yếu tố đàn - nhạc được đưa lên hàng đầu. Tiếng đàn làm quên đi cái hanh khô của nắng ban trưa, cái oi nồng của mùi phèn đất. Nhưng hơn hết, tiếng đàn đã góp nhặt trong tâm tư người Việt, phản ánh nỗi lòng. Kho tàng nhạc cụ của dân tộc ta rất phong phú, có thể chia làm ba bộ là bộ gõ trống, chũm chọe..., bộ dây đờn cò, đờn tranh... và bộ hơi tiêu, sáo.... Người Việt từ xưa đến nay nhìn chung đời sống giải trí đa dạng, âm nhạc cũng góp phần làm đẹp thêm cho tâm hồn con người. Lời ca tiếng đàn có mặt nơi đồng sâu, sông vắng, chứ không chỉ ngân vang nơi gác tía, lầu son. Hồi nhỏ tôi bị mê mẩn tiếng đờn cò của ông Tám nhà bên, cứ chiều chiều ông lại ngồi trên bộ ván trước nhà kéo mấy bản Nam Ai, mấy cung thương cung oán nghe buồn não ruột. Ông thường dạy tôi phải nói cho đúng chữ “Con phải nói là đờn cò chớ không phải đàn cò. Đờn là tiếng lòng của ông cha để lại! Mấy cung hò, xự, xang... là của người Việt mình! Còn đàn là để chỉ mấy nhạc cụ của phương Tây”. Ông nhấn nhá từng tiếng một. Cũng vậy, những nhạc khúc do dàn “đờn dân tộc” chủ công thì không ai gọi bài hát mà phải gọi bài ca, người trình bày là người ca diễn. Ông Tám thường hay ngân nga Đờn cò lên trục kêu vang Qua còn thương bậu, bậu khoan có chồng Muốn cho nhơn nghĩa đạo đồng Qua đây thương bậu hơn chồng bậu thương Chiều nay qua phản bạn hồi hương Nghe bậu ở lại vầy vươn nơi nào Ghe tui tới chỗ cắm sào Nghe bậu có chốn muốn nhào xuống sông Thế mới biết, đàn được dân gian gửi gắm bao tâm tình, nỗi niềm. Tiếng đàn vào buổi chiều tà khiến lòng người lắng lòng lại Đờn tre não nuột du dương Dưới ao nhái hát, bên đường ve ngân Người “sành” nghe đàn có thể nhận biết được nỗi lòng của người đang gảy Tiếng đàn khắc khoải kêu thương Bậu tham ruộng cả, bậu vương bạc vàng Tiếng đàn lắm khi có sức mạnh thần kỳ, chẳng những làm say lòng nguời mà đến chim muông hoa lá cũng say sưa – thể hiện tài hoa của người đàn Đàn ai khéo gảy tính tình, Một đàn con cá lặn ghềnh nó nghe Đầu ghềnh có con ba ba Kẻ kêu con tranh người kêu con rùa Người chơi nhạc, đặc biệt là âm nhạc dân tộc rất quý cây đàn, một sợi dây đàn bị đứt xem như là điều không may. Ông bà ở Nam bộ ngày xưa, nhà ai có chơi đờn cò, đờn gáo... đều dành một chỗ cao ráo, trang trọng để cất giữ. Bởi vậy Đờn cò ai nỡ đứt dây Ngẫm mình vô tội ai gây oán thù Cây đàn còn được dùng để ướm lời và kết duyên, làm trọn vẹn mối tình đôi lứa. Lời thề nguyền của cô gái khiến người nghe không khỏi “ngùi ngùi” Đàn tranh sánh với đàn cầm Một đây một đấy đáng trăm lạng vàng Còn đang tạc đá ghi vàng Ngô đồng nỡ bỏ phượng hoàng ngẩn ngơ Mấy năm em cũng xin chờ Cầm bằng tóc bạc như tơ cũng đành Hình ảnh so sánh “đàn tranh” với “đàn cầm” tương xứng nhưng cũng thật ý vị. Dẫu cho mỗi loại đàn có những thanh âm khác nhau nhưng đều làm mê mẩn lòng người và đặc biệt là hai loại đàn này nếu song tấu thì rất ăn nhịp nhau. Không chỉ thắm nồng trong tình cảm riêng tư, lắm khi người đang yêu còn dùng hình ảnh cây đàn để nói lên tình cảm mà họ dành cho nhau Cầm đàn mà gảy qua sông Đàn em em gảy não nùng như ru Đàn anh dây thẳng dây chùng Đàn em em gảy năm cung rõ ràng Chàng trai này có vẻ không thiện nghệ ngón đàn nên mới “dây thẳng dây chùng”, bởi dây đàn lúc nào cũng phải căng thẳng đủ mức thì mới đàn ra hồn phách được. Cũng thế mà có câu thành ngữ “Căng như dây đàn” đấy thôi! “Năm cung rõ ràng” chứng tỏ độ “chuyên” trong tài gảy đàn của cô gái. Năm cung trong âm nhạc dân tộc hay còn gọi là ngũ âm gồm các bậc hò, xự, xang, xê, cống. Ngoài ra, cũng có một số âm phụ khác tồn, tang, lịu, xệ, phạng, cộng, u, y, ý... giúp bài ca thêm phần uyển chuyển. Ban nhạc trong đờn ca tài tử Nam bộ gồm có các nhạc cụ chính đờn kìm, đờn tranh, đờn cò, đờn bầu, đàn ghi – ta phím lõm... Trong đó bộ “tứ tuyệt” phải kể đến là “cò, kìm, tranh, bầu”. Nhớ nhạc ngũ cung, tôi nhớ hoài câu ca dao mà tôi biết được qua một người phụ nữ hát ru cháu ở miệt Bến Bàu, Bạc Liêu. Câu hát như vầy í dầu cầu ván đóng đinh Cầu tre lắt lẻo gập ghình khó đi Khó đi mượn chén ăn cơm Mượn ly uống rượu, mượn đờn kéo chơi Bậu nghe qua kéo đờn cò Đứt dây... ứ hự... quên hò, xự, xang Tuy phần trên của bài ca dao này không mới nhưng hai câu kết này rất lạ và thú vị. Người đàn biết có người đang lắng nghe những thanh âm phát ra từ cây đờn cò của mình thì như là “con tằm bối rối vì tơ”, đến nỗi quên hết thang thức. Hai chữ “ứ hự” thật đậm đà Nam bộ làm sao, mang cái tình sâu của làng quê sông nước. Về đờn cò, còn gọi là đờn nhị vì đờn có hai dây. Đờn cò là gọi theo cách tượng hình. Nhìn bề ngoài, đờn giống như một con cò trục dây có đầu quặp hẳn xuống giống như mỏ cò, cần đờn giống như cổ cò, hộp đờn giống như thân cò và đặc biệt là tiếng đờn thánh thót như tiếng cò kêu đêm. Ngày xưa, những người phụ nữ lớn tuổi không quên nhắc nhở những cô gái mới lớn không bao giờ được nghe đờn bầu! Đờn bầu ai gảy nấy nghe Làm thân con gái chớ nghe đờn bầu Đờn bầu là loại đờn có một dây duy nhất nên còn gọi là độc huyền cầm. Trong kho tàng âm nhạc người Việt, đờn bầu được coi là nhạc cụ độc đáo và có tiếng kêu mê hoặc lòng người. Bởi thế các bà mẹ xưa rất sợ con mình nghe chàng trai nào thánh thót giọt đờn bầu. Thanh âm phát ra, người nghe cảm nhận như từng giọt nhẹ nhàng rơi vào lòng người – “lắng như giọt đờn bầu”. Tiếng đàn du dương trầm lắng, khoan nhặt thiết tha, khiến cho ai nghe một lần đã vương, đã nhớ! Dường như, đàn chỉ dùng cho người thanh cao, nho nhã, người có tấm lòng rộng mở. Người nghe cũng đòi hỏi một khả năng cảm thụ nhất định. Nếu không hiểu biết gì mà cứ ngồi nghe để “chờ thời” thì được xem là “đàn gảy tai trâu”. Ngày nay, đời sống âm nhạc của người Việt chúng ta ngày càng phong phú. Mỗi vùng mỗi sắc, mỗi chốn mỗi hương. Đó là thành quả của sự sáng tạo và bảo lưu các giá trị truyền thống của dân tộc, góp phần làm đẹp thêm tâm hồn con người Việt Nam. Âm nhạc Việt giờ đây còn có sự góp mặt của các nhạc cụ Tây phương. Tuy nhiên, từng tiếng đàn, lời ca ngọt ngào từ đất quê đã gieo rắc vào lòng người bao tình cảm thiết tha. Tiếng đàn dung dưỡng tâm hồn ta, khiến ta thêm gắn bó với quê hương xứ sở. Buổi chiều tà bên dòng kinh Bà Từ nước trôi lờ đờ những bông bần mới rụng, nồng nặc mùi phèn của ao tôm trước cửa, nghe ông Tám kéo đờn cò mấy khúc Nam ai thì “ngàn năm hồ dễ mấy ai quên”!... Bài, ảnh Đặng Duy Khôi Thôn làng Việt Nam nay còn nguyên vẹn miếu thờ thơm hương, dưới gốc đa cổ thụ. Gió mưa rì rào trên cành đa, da diết thả tiếng đàn Thạch Sanh Đàn kêu tích tịch tình tang Ai mang công chúa dưới hang trở về Tiếng đàn réo rắt âm thầm xiết vào lòng người tình thương yêu xa xót chàng Thạch Sanh. Và nỗi uất hận điệp trùng câm lặng với tên hàng rượu Lý Thông. Thạch Sanh sinh ra từ lòng mẹ, tình cha khó nghèo, nhưng tốt bụng. Cha mẹ sớm qua đời. Chàng bơ vơ tựa góc lều dưới gốc đa già đầu xóm. Thạch Sanh cầm lưỡi búa cha để lại, lên rừng đốn củi nuôi thân. Trong làng có gã Lý Thông quỷ quyệt, biết Thạch Sanh khỏe mạnh, hiền lành, dễ sai khiến, nên lân la gạ gẫm, vờ kết nghĩa anh em. Thạch Sanh dễ tin, ngây thơ, thấy kẻ giàu săn sóc mình thì cảm động, theo về nhà Lý Thông ở cùng. Thạch Sanh làm hùng hục, cất rượu cho nhà Lý Thông bán. Hắn trở nên giàu. Càng giàu càng gian manh, trắng trợn mọc nanh vuốt, nuốt chửng dân nghèo một cách ghê tởm. Trong vùng lại có một con trăn tinh, biến hóa khôn lường, bắt người ăn thịt. Quan quân nhiều lần bổ vây, diệt trừ, nhưng không làm gì được nó. Dân đành phải lập cho nó một cái miếu. Mỗi năm dâng nó một mạng người. Năm ấy, đến lượt Lý Thông nộp mình. Mẹ con Lý Thông khiếp đảm, kinh hồn. Bà mẹ nào đủ can đảm dâng con cho thú dữ ăn thịt? Nhưng lệ làng nó thế. Quỷ ác vẫy vùng. Không còn đường thoát. Tình cảnh thật thê thảm. Dân cam chịu. Năm mỗi năm, dâng con cho thú ăn thịt. Chẳng dám kêu nửa lời. Riêng mẹ con Lý Thông ma quái, lập mưu, tìm cách thoát thân. Lý Thông nghĩ đến Thạch Sanh Hắn không cha, không mẹ, không ai thân thích, lại vừa mới đến, lạ nước lạ cái, chắc là việc sẽ trót lọt. Chiều tối, Lý Thông dọn mâm rượu thịt ê hề mời Thạch Sanh ăn, rồi bảo Đêm nay đến lượt anh canh miếu thờ, em chịu khó đi thay anh, sáng mai lại về. Thạch Sanh tin ngay. Đi ngay. Nửa đêm trong miếu, trăn tinh hiện ra nhe nanh nhọn, vồ Thạch Sanh. Chàng dũng mãnh chặt đầu quái vật và nhặt bộ cung tên bằng vàng của nó xách về. Canh ba. Mẹ con Lý Thông đang ngủ, bỗng nghe tiếng Thạch Sanh gọi cửa, ngỡ oan hồn chàng về báo oán, run rẩy cúi đầu lạy van. Thạch Sanh vào nhà, kể chuyện giết trăn tinh. Mẹ con Lý Thông hoàn hồn. Hắn lại nảy mưu Con trăn ấy của vua nuôi đã lâu. Nay em giết nó, sẽ bị tội chết. Em trốn ngay đi. Mọi chuyện anh lo liệu. Thạch Sanh tin ngay. Chàng vội cảm ơn hai mẹ con Lý Thông và trở về gốc đa xưa. Lý Thông lập tức đem thủ cấp yêu quái tâu vua. Vua khen hắn anh hùng, phong đô đốc. Công chúa con vua đến tuổi lấy chồng. Nàng chọn rất nhiều mà chưa gặp ai xứng đáng. Vua mở hội ném quả cầu duyên. Quả cầu trúng vào người nào thì lấy người ấy. Khi nàng sắp sửa ném quả cầu, Đại bàng bay qua, sà xuống cắp nàng về hang. Thạch Sanh đang ngồi dưới gốc đa, nhìn thấy Đại bàng cắp công chúa, chàng giơ cung bắn. Mũi tên trúng cánh Đại bàng. Thạch Sanh lần theo vết máu, tìm đến hang Đại bàng. Vua mất con, đau đớn sai đô đốc Lý Thông đi tìm nàng. Lý Thông nghĩ đến Thạch Sanh. Hắn dò tin Thạch Sanh. Ngày thứ mưởi thì gặp. Hắn nói việc tìm công chúa. Thạch Sanh thật thà kể chuyện bắn Đại bàng. Lý Thông nhờ chàng dẫn quân sĩ đến hang. Cửa hang tối om, thăm thẳm. Không một ai dám xuống. Thạch Sanh buộc dây ở lưng, dòng xuống hang, tìm công chúa. Đại bàng bị thương nằm liệt, bắt công chúa phục dịch. Thạch Sanh ra hiệu cứu nàng. Công chúa cảm phục, yêu thương chàng trai liều chết cứu mình. Chàng buộc nàng vào dây, ra hiệu Lý Thông kéo lên. Công chúa ra khỏi hang, cửa hang bị lấp. Thạch Sanh đập phá tìm lối thoát. Đại bàng tỉnh dậy, đánh nhau với Thạch Sanh. Chàng giết Đại bàng, giải thoát Thái tử con vua Thủy Tề bị giam trong cũi sắt. Thạch Sanh được đón xuống Thủy cung bằng phép lạ. Vua Thủy Tề tặng chàng nhiều vàng bạc. Chàng chỉ nhận một cây đàn và trở về gốc đa xưa, sống cuộc đời khốn khổ. Nhưng chúng không để chàng yên. Thạch Sanh bị vu vạ. Chúng trộm tài sản triều đình vứt vào gốc đa, bắt Thạch Sanh hạ ngục. Công chúa được Lý Thông đưa về cung, tự nhiên hóa câm. Mặt hoa rầu rĩ. Suốt ngày đêm không nói, không cười. Vua đành hoãn cưới Lý Thông cho nàng, sai Lý Thông lập đàn cầu nguyện nàng khỏi bệnh. Lý Thông mời các pháp sư pháp thuật cao cường cầu cúng mãi vẫn không ăn thua. Giữa lúc đó, vua giao Thạch Sanh cho Lý Thông xét xử. Hắn không ngờ, Thạch Sanh vẫn sống. Hắn nghĩ "Nếu để nó sống, nó sẽ tố cáo ta." Lý Thông khép Thạch Sanh vào tội chết. Trong ngục sâu tăm tối, Thạch Sanh buồn. Chẳng hiểu vì sao tôi buồn? Chàng mang đàn ra gẩy. Tiếng đàn Thạch Sanh bay lên từ địa ngục. Tiếng đàn nỉ non, khắc khoải Đàn kêu tích tịch tình tang Đàn rung tiếng ngọc lời vàng trái tim Đàn kêu gió nổi mưa ngàn Cung trầm cung bổng dối gian kiếp người Đàn kêu ân oán thở than Trách ai vô cảm vô tâm vô tình Đàn kêu hờ hững cô liêu Đàn kêu tù ngục liêu xiêu cung đàn Đàn kêu nước mắt chứa chan Trăm năm vang tiếng đàn tôi âm thầm Tiếng đàn Thạch Sanh thoát khỏi nhà ngục. Tiếng đàn truyền không gian. Rất xa. Rất xa. Tiếng đàn bay lên rừng núi, hang sâu, đồng lúa, gốc đa già, ngôi miếu cổ. Tiếng đàn nức nở chuyển rung những trái tim. Tiếng đàn len lỏi vào cung vua, phủ chúa. Công chúa câm đang ngồi trên lầu vắng. Lạnh lẽo. Cô đơn. Bỗng nghe tiếng đàn. Trái tim nàng rung từng nhịp theo tiếng đàn rơi. Nàng bỗng bật ra tiếng nói. Nàng cười. Tiếng cười trong trẻo như sương mai đậu trên đóa hồng. Nàng khóc. Những giọt nước mắt ngọc ngà của tình yêu. Nàng nói với vua cha, tiếng nói thanh cao ấp áp tình người Con xin phép vua cha cho gọi người gẩy đàn vào cung. Vua cha mừng vui cho mở cửa ngục, đưa Thạch Sanh vào gặp công chúa. Công chúa chạy đến ôm Thạch Sanh và cây đàn. Nước mắt chứa chan. Thạch Sanh gẩy đàn trước nàng và vua quan hoàng cung. Tiếng đàn bập bùng rung muôn cung bậc chuyện đời. Từ cậu bé mồ côi, khỏe mạnh, thông thái, thơ ngây, trong sạch, bị lừa đảo, bị cướp công, bị vu vạ, bị dồn ép, đọa đày, tù ngục.. trở thành chủ nhân của cây đàn vang muôn điệu, thức tỉnh nhân gian. Vua biết ơn người cứu con mình, nhận ra đây là chàng rể quý. Lễ cưới của Thạch Sanh và công chúa bừng sáng kinh kỳ. Thấy vậy, bọn hoàng tử các nước láng giềng vô cùng tức giận. Họ hội họp binh lính mười tám nước, sang hỏi tội vua tại sao đem gả công chúa cành vàng lá ngọc cho một đứa mồ côi nghèo đói. Thạch Sanh bình tĩnh mang đàn ra gẩy. Tiếng đàn thánh thót vang lên Đàn vang chuyển động giang san Tình tang tích tịch, tình say lòng người Chiến tranh nào có hay gì Gió cuộn bên này, sóng lay bên kia Người vật xô nhau vào vòng xoáy Rừng bốc cháy, cánh đồng tro lạnh Trầu cau rụng chân trời lửa đỏ Linh hồn chết bơ vơ trơ trọi Người sống sót vật vờ lơ phơ Đàn rung thao thiết đợi chờ nghĩa nhân Nghe tiếng đàn Thạch Sanh thức ngộ. Tự nhiên quân lính rã rời, rơi vũ khí. Bọn hoàng tử sợ chết hơn ai hết. Chúng được ngồi mát ăn bát vàng. Chúng đang chầu chực cướp quyền lực cai trị dân. Chúng sợ chết là phải. Chúng từ từ cởi giáp hàng. Thạch Sanh sai dọn cơm cho họ ăn rồi cuốn nhau về nước. Niêu cơm Thạch Sanh quá nhỏ, họ bĩu môi không thèm. Thạch Sanh thách họ ăn hết được niêu cơm sẽ trọng thưởng. Quả nhiên, họ ăn mãi, ăn mãi, niêu cơm vơi lại đầy. Họ hiểu ra rằng đất nước của Thạch Sanh tuy nhỏ mà đầy sức mạnh. Niêu cơm Thạch Sanh do dân tiếp tế. Là sức mạnh lòng dân, vô bờ bến, diệt mọi kẻ thù. Họ chẳng dám giở trò đánh nhau. Vua thấy Thạch Sanh giải quyết việc quốc gia đại sự nhẹ như tiếng đàn, thơm như hương gạo lúa quê thì vô cùng cảm phục. Tiếng đàn Thạch Sanh, niêu cơm Thạch Sanh tránh được chiến tranh máu đổ tương tàn. Thật là thông thái, khôn ngoan. Thật là nhân nghĩa. Biết thương xót giống nòi. Biết trân trọng sinh mạng con người và núi sông, vạn vật. Vua trân trọng nhường ngôi vua cho Thạch Sanh, vì lợi ích trường tồn của sơn hà xã tắc. Truyện cổ tích Việt Nam là như vậy. Hãy đọc và khám phá những bài học xương máu, khôn ngoan dạy làm người lương thiện, dạy kế sách giữ nhà, giữ nước, tránh chiến tranh, được Tổ Tiên ta gói vào cổ tích, huyền thoại, truyền muôn đời con cháu. Người kể chuyện Tiếng Đàn Thạch Sanh không nhai nhàm chuyện cũ. Tôi kể lại bằng tư duy khám phá, dẫn người đọc cùng suy ngẫm và ứng dụng vào cuộc sống của mình. Hồ Gươm Xuân Giáp Ngọ 2014 Tác giả Mai Thục Admin và Sói thích bài này. Last edited by a moderator 19 Tháng sáu 2020 Đàn kêu tích tịch tình tang Ai mang công chúa dưới hang mà về Đàn kêu hỡi Lý Thông mày, Đã mang bất nghĩa lại tày vong ân. Đàn kêu ăn ở bất nhân, Đã ăn quả lại quên ân người trồng. Đàn kêu non nỉ trong lòng, Tiếng ti tiếng trúc cũng đều như ru. Đàn kêu trách Hán quên Hồ, Trách Tần quên Sở trách Ngô quên Tề. Đàn kêu vọng đến cung thê, Trách nàng công chúa vậy thì sai ngoa! Đàn kêu tích tịch tình tang Đàn rung tiếng ngọc lời vàng trái tim Đàn kêu gió nổi mưa ngàn Cung trầm cung bổng dối gian kiếp người Đàn kêu ân oán thở than Trách ai vô cảm vô tâm vô tình Đàn kêu hờ hững cô liêu Đàn kêu tù ngục liêu xiêu cung đàn Đàn kêu nước mắt chứa chan Trăm năm vang tiếng đàn tôi âm thầm Đàn vang chuyển động giang san Tình tang tích tịch, tình say lòng người Chiến tranh nào có hay gì Gió cuộn bên này, sóng lay bên kia Người vật xô nhau vào vòng xoáy Rừng bốc cháy, cánh đồng tro lạnh Trầu cau rụng chân trời lửa đỏ Linh hồn chết bơ vơ trơ trọi Người sống sót vật vờ lơ phơ Đàn rung thao thiết đợi chờ nghĩa nhân truyện cổ tích truyện thiếu nhi

tiếng đàn kêu tích tịch tình tang